399B Trường Chinh, phường 14, quận Tân Bình, TP.HCM
DÀN BÀI
1.Mở bài
Nước Việt Nam ta đã trải qua những biến cố lịch sử đầy thương đau và nước mắt, những giai đoạn thăng trầm biến chuyển của xã hội. Những cảnh biệt li đau khổ và sự chờ đợi mỏi mòn đã được văn học Việt Nam khắc ghi qua những khúc ngâm đầy cảm động của người chinh phụ.
Trong hoàn cảnh ấy, người chinh phụ làm sao tránh khỏi những tâm trạng đau buồn khắc khoải với nỗi cô đơn lẻ loi của mình. Tâm trạng ấy được thể hiện qua khúc ngâm Nỗi nhớ nhung sầu muộn của người chinh phụ.
2.Thân bài
- Lời tâm sự của người chinh phụ trong đoạn trích vô cùng đau xót nhưng lòng vẫn luôn hướng về nơi biên thùy xa xôi.
- Nàng chinh phụ tưởng tượng cảnh chồng nơi chiến trường thật thê lương, thảm đạm, hãi hùng với những cuộc hành quân liên miên.
- Nàng chinh phụ đang tuyệt vọng trầm uâT trước những suy tư, nghĩ ngợi về cuộc giao tranh dữ dội ỏ' một vùng đất lạ, xa xôi để rồi nghĩ đến việc gom góp lòng nhớ nhung nhờ gió đông gởi đến non Yên cho chồng.
- Dù cho đường lên bằng trời thì nàng vẫn cố lên với chàng bằng được. Ý nghĩ ấy có thể thực hiện được chăng khi con đường ấy vô bờ bến, nó “thăm thẳm” và vô tận, xa xôi.
- Hi vọng của người chinh phụ đã bị chuyển hóa góc độ thành một nỗi đau, chà đi xát lại trong tâm hồn nàng. Nàng vừa hi vọng rồi lại bắt đầu thất vọng.
- Tâm trạng thất vọng của nàng làm cho cảnh vật cũng nhuốm buồn. Bức tranh thiên nhiên thể hiện tâm trạng buồn bã của người chinh phụ liên tiếp xuất hiện với hàng loạt những hình ảnh sinh động, với những giọt mưa xuân rả rích nhưng tiềm ẩn một sức mạnh ghê gớm gây nên những đoạn trường đứt ruột trong lòng một con người đau khổ.
- Trước mắt nàng là những cảnh vật thiên nhiên vô cùng sông động, nó khơi dậy từng màng từng lớp trong không gian như biểu hiện rõ cái sức mạnh của mình, nhưng cái sức mạnh ấy có ý nghĩa gì khi nàng vẫn thẫn thờ như một kẻ mất trí, không còn phân biệt được âm thanh và hình ảnh của cảnh vật nữa.
- Biện pháp liên hoàn trong khổ thơ CUỐInày cứ trùng điệp nhau, khơi gợi lên cái cảnh trăng hoa xoắn xít nhau, tỏa sắc lên hương để biểu hiện cho niềm vui tuổi trẻ, khát khao đắm say với niềm hạnh phúc hiếm hoi bất ngờ.
- Nàng càng buồn, càng ngóng trông thì người thương càng xa mãi, càng nhớ thì càng xa. Nàng cứ chờ đợi, đếm từng tháng ngày trôi qua trong sự nhớ thương chồng chất.
- Đây là bài thơ phác họa tâm trạng của người con gái phải xa chồng biền biệt, ngày tháng chờ đợi mỏi mòn trong lòng.
3.Kết bài
Chinh phụ ngâm là một tác phẩm chông chiến tranh. Trong quan niệm của người sáng tác cũng như người dịch thì chiến tranh đối với người ra đi chinh chiến là chết chóc và đối với người ở lại là sự cô đơn sầu muộn, lo âu, sợ hãi.
BÀI LÀM
Những cảnh biệt li đau khổ khi vợ chồng phải biệt li nhau và sự chờ đợi mỏi mòn về phương trời xa xăm hình bóng của một con người trong chiến trận đã được văn học Việt Nam khắc ghi qua những ca khúc ngâm đầy cảm động. Khúc ngâm Nỗi nhớ nhung sầu muộn của người chinh phụ đã thể hiện tâm trạng đau buồn khắc khoải với nỗi cô đơn lẻ loi của người chinh phụ có chồng ra trận.
Lời tâm sự của người chinh phụ trong đoạn trích vô cùng đau xót, nó mang tâm trạng cô đơn, trống vắng của một con người sống với những tháng ngày chìm đắm trong sầu tư khắc khoải nhưng lòng vẫn luôn hướng về nơi biên thùy xa xôi. Nơi đó có hình bóng của một con người mà nàng yêu thương nhất:
“Lòng này gởi gió đông có tiện Nghìn vàng xin gởi đến non Yên”.
Cái tâm trạng chờ đợi, sầu nhớ chồng giống như tâm trạng của người chinh phụ trong “nỗi thương nhớ”.
“Nay Hán xuống Bạch Thành đóng lại Mai Hồ vào Thanh Hải dòm qua”.
Nàng chinh phụ này cũng tưởng tượng cảnh chồng nơi chiến trường, cảnh chiến trường mà nàng tưởng tượng ra thật thê lương, thảm đạm, hãi hùng với những cuộc hành quân liên miên. Trở về với đoạn trích, ta thấy có lẽ nàng chinh phụ đang tuyệt vọng trầm uất trước những suy tư, nghĩ ngợi về cuộc giao tranh dữ dội ở một vùng đất lạ, xa xôi để rồi nghĩ đến việc gom góp lòng nhớ nhung nhờ gió Đông gởi đến non Yên cho chồng. Gởi gió Đông mà chẳng đến chàng thì nỗi nhớ của nàng sẽ đằng đẵng xa thẳm như “đường lèn bằng trời”. Cái hi vọng ấy cao vút lên nhưng bi kịch của hiện thực khách quan đã bóp nát nó bởi tâm trạng của nàng không hề được khây khỏa:
“Non Yên dù chẳng tới miền Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời”.
Và dù cho đường lên bằng trời thì nàng vẫn cố lên với chàng bằng được. Ý nghĩ ấy có thể thực hiện được chăng khi con đường ấy vô bờ bến, nó “thăm thẳm” và vô tận, xa xôi?
“Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong”.
Ấy chỉ là một giấc mơ huyền ảo, nàng mơ ước được gặp chàng, được đến với chàng, một niềm mơ ước vượt khỏi thực tại thử hỏi có thực hiện được không? Cái mơ ước tưởng tượng ấy cũng giống như người thiếu phụ trong đoạn trích Trông bốn bể. Thật đúng là “Tình trong giấc mộng muôn vàn cũng không”. Thế rồi cái hi vọng ấy đã bị chuyển hóa góc độ thành một nỗi đau, chà đi xát lại trong tâm hồn nàng:
"Cảnh buồn người thiết tha lòng Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun”.
Nàng vừa hi vọng rồi lại bắt đầu thất vọng:
“Hẹn cùng ta Lủng Tây nham ấy Sớm đã trông nào thấy hơi tăm...
Hẹn nơi nao Hán Dương cầu nọ Chiều lại tìm nào có tiêu hao”.
Tâm trạng thất vọng của nàng làm cho cảnh vật cũng nhuốm buồn: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.
(Nguyễn Du)
Một bức tranh thiên nhiên thể hiện tâm trạng buồn bã của người chinh phụ liên tiếp xuất hiện với hàng loạt những hình ảnh sinh động, với những giọt mưa xuân rả rích nhưng tiềm ẩn một sức mạnh ghê gớm gây nên những đoạn trường đứt ruột trong lòng một con người đau khổ, bằng những từ gợi cảm giác mạnh như “bổ mòn”, “xể héo” và những từ chỉ âm thanh lắng đọng “nện khơi, kèu vẳng”:
“Sương như búa, bổ mòn gốc liễu
Tuyết dường cưa, xể héo cành ngô
Giọt sương phủ bụi chim gù
Sâu tường kêu vắng chuông chùa nện khơi”.
Trước mắt nàng là những cảnh vật thiên nhiên vô cùng sống động, nó khơi dậy từng màng từng lớp trong không gian như biểu hiện rõ cái sức mạnh của mình, nhưng cái sức mạnh ấy có .ý nghĩa gì khi nàng vẫn thẫn thờ như một kẻ mất trí, không còn phân biệt được âm thanh và hình ảnh của cảnh vật nữa. Nhưng có lẽ nhờ cơn gió mạnh thổi qua, cái tiếng gió ấy đã thốc lên, vén tấm màn lên làm nàng hồi tỉnh lại; những cảnh vật ở bên ngoài tiếp tục hiện ra trước mắt:
“Vài tiếng dế, nguyệt soi trước ốc
Một hàng tiêu, gió thốc ngoài hiên
Lá màn lay ngọn gió xuyên
Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm”.
Cảnh vật càng về khuya càng sinh động lạ thường với âm thanh rỉ rả của những chú dế, hòa với ánh trăng soi sáng cả hiên nhà. Hàngtiêu trước ngõ cũng đang vui đùa cùng chị gió. Cảnh vật đẹp như thế đấy, sinh động và cụ thể thế đấy nhưng lòng người chinh phụ vẫn cứ bồi hồi, cô đơn. Tất cả dường như gợi lên sự cô liêu trông trải, cô quạnh của nàng và như có cái gì đó che khuất, ẩn nấp trong điều nàng ngóng trông.
“Trông bền nam bãi che mặt nước,
Cỏ biếc um dâu mướt màu xanh Nhà thôn mấy xóm chông chênh,
Một đàn cò đậu trước ghềnh chiều hôm”.
Thiên nhiên vẫn cứ muôn màu sắc trùm lên khoảng không trung rộng lớn của bầu trời mà con người thì vẫn sầu tư, ủ rũ:
“Hoa giãi nguyệt, nguyệt in một tấm Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông , Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng
Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đâu”.
Biện pháp liên hoàn trong khổ thơ cuối này cứ trùng điệp nhau, khơi gợi lên cái cảnh trăng hoa xoắn xít nhau, tỏa sắc lên hương để biếu hiện cho niềm vui tuổi trẻ, khát khao đắm sav với niềm hạnh phúc hiếm hoi bất ngờ. Có lẽ chính thiên nhiên lúc này đã đánh thức tâm trạng người thiếu phụ một lần nữa, làm nàng có thể trở về với tâm trạng cân bằng. Nhưng cảnh sắc vừa nhóm lên để cân bằng thì tâm trạng ấy lại biến đổi: “Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đâu”.
Ta lại đi vào hành trình của tâm trạng mới, hoa nguyệt ấy vẫn không giấu được nỗi đau của nàng chinh phụ. Nàng vẫn tiếp tục cô đơn và buồn tẻ bởi nàng đang đứng ngóng trông chồng mà chồng đâu chẳng thấy chỉ thấy toàn những cảnh vật thiên nhiên của đát trời hiện ra không còn dấu vết gì của người thương.
“Núi cao chi lắm núi cà Núi che mặt trời, chẳng thấy người thương”.
Nàng càng buồn, càng ngóng trông thì người thương càng xa mãi, càng nhớ' thì càng xa:
“Ngày ngày em đứng trên sông Trông non non ngất, trông sông sông dài Trông mây, mây kéo ngang trời Trông trăng trăng khuyết, trông người người xa”.
Nàng cứ chờ đợi, đếm từng tháng ngày trôi qua trong sự nhớ thương chồng chất. Người chinh phụ cứ trông ngóng chồng mình cho đến bao giờ đây? Chẳng lẽ trông ngóng chồng cho đến lúc phải hóa đá “vọng phu” chăng?
Tác giả phân tích tâm trạng của người chinh phụ thật là xuất sắc. Phải chăng tác giả đã phác họa lên một bức tranh thiên nhiên có kết cấu hết sức hài hòa với cổ điển: đường nét, màu sắc, ấm thanh rất linh hoạt được sáng tạo theo bức tranh thuỷ mặc chấm phá của người xưa. Nhưng mục đích không phải là tả cảnh mà tạo nên một bức tranh tâm trạng của người chinh phụ ngồi ngắm cảnh trời, suy tư mơ tưởng đến chồng giống như người chinh phụ trong những câu thơ Đường:
“Tương tư nhất dạ mai hoa khói Nhất kiến song tiển nghị thị quân”.
và:
“Khè xuân thiếu phụ bất như sầu Xuân nhật ngưng trang thượng thúy lâu Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc Hối giao phu tế mịch phong hầu”.
Đây là bài thơ phác họa tâm trạng của người con gái phải xa chồng biền biệt, ngày tháng chờ đợi mỏi mòn trong lòng.
Phải chăng câu nói của Honoréde Balzac là hoàn toàn đúng: “Rung cảm, yêu, chịu nhiều đau khổ, hi sinh- những chữ này mãi mãi dệt nên trang đời của người phụ nữ”.
Qua đoạn trích, ta thấy Chinh phụ ngâm là một tác phẩm chống chiến tranh. Trong quan niệm của người sáng tác cũng như người dịch thì chiến tranh đối với người ra đi chinh chiến là chết chóc và đối với người ở lại là sự cô đơn sầu muộn, lo âu, sợ hãi. Do đó, chiến tranh không thể nào phù hợp với con người mà nó đối lập toàn bộ cuộc sống con người. Mặt khác, tác phẩm còn nói lên khát khao cháy bỏng của con người về cuộc sống, hòa bình và mong muốn được hưởng hạnh phúc của tuổi trẻ, tình yêu, không phải mòn mỏi chờ đợi để tàn đi tuổi thanh xuân của mình một cách vô lí như Xavier Forneret đã nói: “Người con gái là một đóa hoa hồng mà năm tháng tỉa dần từng cánh”.