399B Trường Chinh, phường 14, quận Tân Bình, TP.HCM
Bài làm
Nguyễn Công Hoan là một trong những nhà văn tiêu biểu của trào lưu văn học hiện thực tiến bộ những năm đầu thế kỷ XX. Ông đã để lại cho nền văn học Việt Nam một số truyện ngắn tiêu biểu. Mảng truyện ngắn trào phúng là sở trường trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn. Bằng nghệ thuật trào phúng sắc sảo, truyện ngắn Đồng hào có ma của Nguyễn Công Hoan đã vạch trần bộ mặt thối nát của bọn quan lại phong kiến đương thời.
Trước tiên, chúng ta phải nói đến nghệ thuật kể chuyện đặc sắc và nghệ thuật tạo dựng tình huống điêu luyện. Đáng kể nhất là cách vào truyện:
"Tôi cực lực công kích sách vệ sinh đã dạy ta ăn uống phải sạch sẽ, nếu ta muốn được khoẻ mạnh, héo tốt. Thuyết ấy sai. Trăm lần sai! Nghìn lần sai! Vì tôi thấy sự thực, ở đời này bao nhiều những anh béo, khẻo, đều là những anh thích ăn bẩn cả.
Thì đấy, các ngài hãy cứ nhìn ông Huyện Hình, hẳn các ngài phải chịu ngay rằng, tôi không nói đùa".
Cách vào truyện như thế rất sáng tạo, mới mẻ, khêu gợi trí tưởng tượng và tính tò mò của độc giả ngay từ đầu.
Mặt khác, cách dẫn truyện lại rất tự nhiên, thúi vị xuyên suốt nội dung thiên truyện. Phần mở đầu đã hay, kết thúc càng hấp dẫn. .Hấp dẫn trong bất ngờ:
"Rồi nó lùi lũi bước ra cửa Rồi nó đi về ... Ông Huyện Hình cứ ngồi yên sau bàn giấy để nhìn theo con mẹ khốn nạn. Rồi khi thấy nó đi đã khuất, ông mới đưa mắt xuống chân, dịch chiếc giày ra một tí. Và vẫn tự nhiên như không, ông cúi xuống, thò tay nhặt đồng hào đôi sáng loáng, thổi những hạt cát nhỏ ở đế giày bám vào, rồi bỏ tọt vào túi".
Cái kết thúc này đã giải mã điều bí ẩn củađồng hào có mà do
đâu? Ông Huyện Hinh có ăn bẩn không? Thì ra, ông Huyện Hinh là một kẻ cắp chuyên nghiệp, có nghệ thuật cao do chính cái xã hội xấu xa của ông rèn luyện nên. Ông chẳng những lắm mưu mẹo, ma thuật mà còn sống nhờ vào xương máu cửa những người nông dân nghèo khổ, trình độ văn hóa chưa cao, thấp cổ, bé miệng. Như vậy, trong cái kết thúc này, nhà văn Nguyễn Công Hoan đã "mở nút" cho phần "thắt nút" đầu truyện dể làm bộc lộ rõ mồn một chủ đề của truyện.
Thứ hai, là nghệ thuật khắc hoạ nhân vật hết sức sinh động. Cách giới thiệu nhân vật Huyện Hĩnh rất lạ:
" Chà! Chà! Béo ơi là béo. Béo đến nỗi có thằng dân nào vô ý, buột mồm ra nói một câu sáo rằng: "Nhờ bóng quan lớn", là tưởng ngay nó nói xỏ ông. Tức thì, mặt bàn là một, mặt nó là hai, bị vả đôm đốp. Mà rồi thằng khốn nạn ấy, ông truy cho đến cùng, không còn có thể làm ăn, mở mày mở mặt ra được. Bởi vì ông có sẵn trong tay hàng mớ pháp luật, thì ông ngại gì không khép thằng bảo quan béo vào tội "làm rối cuộc trị an". Thế là việc công việc tư, ông đểu được trọn vẹn. Vì không những ông được hả giận, lại còn được tiếng mẫn cán là khác nữa". Một con người ốm quá cũng khó coi, mập quá cũng không đẹp. Còn ông Huyện Hinh rất khác người: "béo ơi là béo" làm cho độc giả cứ tưởng đó là con lợn! Nếu như tư cách của Huyện Hĩnh tốt đẹp thì người đọc sẽ có cái nhìn thông cảm hơn. Thế nhưng tư cách của ông rất xấu xa, đê hèn, thích " ăn bẩn". "Ăn bẩn" là một lối chơi chữ chỉ bọn quan lại chuyên tìm cách ăn của đút lót và nhờ ăn trên xương máu của dân mà béo tốt. Thật vậy, ai làm quan cũng mong mau chóng được tiến chức to hơn. Huyện Hinh rất ngược đời. Ông sợ thăng quan hơn sợ cọp. Suốt hai mươi năm ròng rã, ông bám mãi chức tri huyện. Nguyên nhân rất đơn giản: "làm bố chánh có vặn xỉ ra mà ăn!". Vả lại, chức quan nhỏ ấy ông cũng không làm tròn, ông làm quan ở huyện nào cũng bị dân viết đơn kiện cáo. Ông làm quan để thoả mãn những thú vui thấp kém của bản thân: đánh bài và ăn chơi. Do đó, bên miệng ông xuất hiện "cái dấu chua nghĩa" (dấu ngoắc đơn). Đây cũng là cách miêu tả theo lối chơi chữ của Nguyễn Công Hoan. Nhà văn muốn nhấn mạnh bản chất tham ô, tha hóa của Huyện Hĩnh. Ngày xưa, các vị quan thanh liêm luôn "lo trước thiên ■
hạ, vui sau thiên hạ" và rất khát khao "trông thôn cùng xóm vắng không một tiếng oán hờn". Họ luôn mong mỏi "Dân giàu đủ khắp mọi phương". Tuy nhiên; Huyện Hĩnh không quan tâm đến nỗi thống khổ, oan khuất của dân. Cụ thể, thấy con mẹ Nuôi tay cầm lá đơn đứng ỏ' công đường là Huyện Hình theo dõi xem tiền của con mẹ Nuôi để ở chỗ nào, dân "lo lót" được bao nhiêu. Con mẹ Nuôi gặp quan run quá làm rớt một đồng hào đôi gần bàn quan, Huyện Hình nhân cơ hội, lấy đế giày đè lên giấu nhẹm. Con mẹ Nuôi tìm mãi không thấy đâu cả đành "lùi lủi" ra về. Đấy! Huyện Hĩnh " lo" cho dân như thế đấy!
Thứ ba là nghệ thuật xây dựng ngôn ngữ vừa tự nhiên, vừa linh hoạt. Lời ăn tiếng nói hằng ngày của nhân dân được đưa vào truyện một cách khéo léo, phục vụ mục đích trào phúng: "Chà! Chà! Béo ơi là béo!". "Câu sáo"; "nói xỏ"; "nở mày nở mặt"; "lẹt dẹt"; "vặn xỉ"; "mất toi"; "xỏ lá"; "con mẹ"; "lóng cóng"; "rơi tiệt cả"; "trễ nải"; "vi thiềng"; "khốn nạn". Những khẩu ngữ này được sử dụng trong văn xuôi để làm tăng tính chất trào phúng. Mặt khác, giọng văn của truyện ngắn này rất đậm chất trào phúng. Nhà văn diễn tả mọi hành động bằng nét nghiêm trang nhưng làm bật lên thái độ mỉa mái, chua chát, công kích mãnh liệt.
Tóm lại, đọc truyện ngắn giai đoạn này chúng ta thấy toàn bộ bộ mặt thật của bọn "cướp ngày" hiện lên rất thối nát, đồi bại, táng tận lương tâm, vô trách nhiệm. Trong truyện Sống chết mặc bay (Phạm Duy Tốn), "quan phụ mẫu" chuyên đánh tồ tôm, bỏ mặc cho đê võ' khiến hàng vạn dân quê lâm vào cảnh "muôn sầu nghìn thảm". Truyện ngắn Tắt đèn của Ngô Tất Tố, ông Nghị "ăn bẩn" xong rồi, "còn nhúng ba ngón tay vào chậu nước vuốt qua hai mép một lượt, rồi cùng xỉa răng, uống nước" một cảnh tỉnh táo thản nhiên. Còn Huyện Hình trong truyện này là một tên quan ăn cắp mạt hạng. Bởi sống dưới chế độ quan trường như thế nên nhân dân ta có câu:
"Con ơi nhớ lấy câu này Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan".
Hãy lên án và đấu tranh mạnh mẽ để tiêu diệt tận gốc bọn tham nhũng, những kẻ "cướp ngày" để xã hội ta ngày càng giàu mạnh và bền vững hơn.