399B Trường Chinh, phường 14, quận Tân Bình, TP.HCM
BÀI LÀM
Chí Phèo thật thật sự là một kiệt tác trong nền văn xuôi hiện đại, là đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn lớn Nam Cao.
Với Chí Phèo, Nam Cao đã xuất hiện trong văn học như một tác giả tiêu biểu nhất của văn học hiện thực phê phán 1940 - 1945, thời kì mới đầy thử thách đối với dòng văn học đó. Cũng như các cây bút lớp trước, Nam Cao đặc biệt quan tâm thể hiện số phận khốn khổ trăm chiều của những người nghèo bị áp bức bóc lột đương thời. Có điều, trong cảm hứng “vạch khố” chung của mọi nhà văn hiện thực, ngòi bút Nam Cao có những khám phá riêng về số phận người lao dộng bị chà đạp. Hình tượng nhân vật Chí Phèo - một điển hình nghệ thuật bất hủ trong văn xuôi Việt Nam - đã thể hiện đầy đủ cái nhìn mới me, độc đáo, có chiều sâu của Nam Cao trong việc thể hiện nỗi khố của người cố nông.
Chí Phèo sinh ra không cha mẹ, không họ hàng thân thích, không nhà cửa, không tấc đất cắm dùi, cả đời không biết đến một bàn tay chăm sóc của đàn bà nêu không gặp thị Nở... Hắn ra đời trong một cái lò gạch cũ bỏ hoang, trong chiếc váy đụp; tuổi thơ của hắn bơ va, hét di ở cho nhà này lại đi ở cho nhà nọ, hai mươi tuổi thì làm canh điền cho nhà giàu...
Đó là cuộc đời khôn khổ của một kỏ thuộc hạng “cùng hơn cả dân cùng” ở nông thôn trước Cách mạng. Nhưng nỗi khổ ghô gớm của Chí Phèo được ngòi bút Nam Cao tập trung thể hiện không phải Ở những cái đó mà ở chỗ khác: người nông dân cùng hơn cả dân củng ấy không được sống ngay cả một cuộc đời nghèo khổ nhưng lương thiện của mình, mà anh đã bị những thế lực đen tối cướp đi cả bộ mặt người cùng linh hồn người để trở thành một con quỷ dữ và bị loại khỏi xã hội loài người.
Mở đầu truyện là hình ảnh hết sức sống động, đầy ấn tượng: Chí Phèo say rượu, vừa đi vừa chửi. Nhưng phải chăng đằng sau những tiếng chửi lảm nhảm của Chí Phèo, có một cái gì như sự vật đã tuyệt vọng của một con người thèm khát được giao tiếp với đồng loại mà không thể đươc. Trong cơn say đến mất cả lí trí, con người khôn đến ấy vẫn cảm nhặn được thấm thìa “nông nổi” của thản phận mình: đó là cái cô đơn khủng khiếp của một con người bị xã hội dứt khoát cự tuyệt, không được coi là người. Hắn thèm được người ta chửi vì chửi dù sao cũng là một hình thức giao tiếp, đối thoại, chửi lại hắn tức là còn thừa nhận hắn là người. Nhưng hắn cứ chửi, xung quanh vẫn cứ là “sự im lặng đáng sợ”. Chí Phèo vẫn có một mình trong sa mạc cô đơn: hắn cứ chửi rồi lại nghe, chỉ có ba con chó dữ với một thằng say rượu!...
Thực ra Chí Phèo vốn đâu phải là một kẻ lưu manh, nát rượu. Khi còn trai trẻ, anh canh điền cho nhà lí Kiến ấy đã ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn, vợ dệt vải, chúng lại bỏ một con lợn để làm vốnliếng. Khá giả thỉ mua dăm ha sào ruộng làm, tức là mơ ước một cuộc sống hạnh phúc hết sức bình dị bằng lao động. Khi ấy khi còn trỏ trung, anh cũng phân biệt được tình yêu chân chính và thói dâm dục xấu xa khi được gọi lên bóp chân cho cái bà ba “quỷ quái”, anh chỉ thấy được nhục chứ yêu đương gì! Nhưng bản chất lương thiện, trong trắng ấy của anh đã bị hủy hoại. Lão cường hào cáo già bá Kiến vì ghen tuông vu vơ, đã cho giải Chí Phèo lên huyện rồi sau đó phải ngồi tù. Cái nhà tù thực dân ấy đã tiếp tay lão cường hào bắt tạm giam anh Chí Phèo lương thiện, vô tội để thả ra một Chí Phèo hung ác, lưu manh, tức là đã biến một người lao động lương thiện thành một con quỷ dữ. Trở về làng Vũ Đại đầy bọn cường hào độc ác “ăn thịt người không tanh” đó, nếu Chí Phèo hiền lành nhịn nhục thì càng bị đạp giúi xuống, không ngóc đầu lên được. Hắn muốn sống thì phải gây gổ, cướp giật, ăn vạ. Muốn thế phải gan, phải mạnh. Những thứ ấy, Chí Phèo tìm ở rượu. Thế là Chí Phèo luôn luôn say, và hắn say thì hắn làm bất cứ điều gì người ta sai hắn làm. Chính xã hội ấy đã làm nát bộ mặt người, cướp đi linh hồn người của anh. Trở về làng lần này, Chí Phèo trở nên xa lạ với mọi người, là con quỷ của làng Vũ Đại, đề tác quái cho hao nhiêu dân làng... Và thế là hắn không còn được mọi người coi là người nữa, ai cũng tránh mặt hắn mỗi lẩn hắn qua.
Qua việc miêu tả hình tượng Chí Phèo, Nam Cao đã nêu lên một hiện tượng khá phổ biến, có tính quy luật ở nông thôn Việt Nam xưa: người lao động lương thiện bị xã hội đẩy vào chỗ cùng đã quay lại chống trả bằng con đường lưu manh để tồn tại. Trước Chí Phèo, làng Vũ Đại đã có chuyện Năm Thọ, rồi Binh Chức. Sau khi Chí Phèo chết, hiện tượng ấy chắc gì đã châm dứt. Chi tiết kết thúc truyện (nghe tin Chí Phèo chết, thị Nở nhìn nhanh xuống bụng và bỗng thấy hiện ra một cái lò gạch cữ bỏ không, xa nhà cửa vắng người lại qua... có nhiều ý nghĩa: Rất có thế từ cái lò gạch củ bỏ không, lại có một “Chí Phèo con” ra đời để nối nghiệp bố... Điều chắc chắn là chừng nào còn bọn cường hào ức hiếp dân lành, không cho họ cuộc sống, thì chừng đó còn những người lao động lương thiện phải rơi vào con đường lưu manh đổ giành lây miêng ăn, tức là bị hủy diệt nhân tính và bị xã hội cự tuyệt quyền làm người. Truyện Chí Phèo cho thấy cái quy luật tàn bạo đó trong xã hội cũ.
Tình trạng lưu manh hóa của Chí Phèo là một biểu hiện nỗi đau khố khốn cùng của con người sinh ra là người mà không được làm người. Có diều, Chí Phèo hình như tê liệt về ý thức, sống mù tôi trong kiẽp sống không còn là người thì anh không thể cảm nhận rõ rệt nỗi đau thân phận bi đát của mình. Nhưng đến khi bản chất, người lao động lương thiện trong Chí Phèo trờ về. Chí Phèo bỗng thòm vô hạn làm hòa với mọi người. BỊ xã hội lạnh lùng cự tuyệt, Chí Phèo mới thật sự rơi vào một bi kịch đau đớn trong tâm hồn và dẫn đến thám kịch.
Trong một cơn say rượu, cảm thấy bứt rứt, ngứa ngáy da thịt, Chí Phèo đã gặp thị Nở và xông tới người đàn bà xấu xí đó một each rất ... Chí Phèo. Nhưng điều kì diệu là, nêu như lúc đầu, thị Nở chỉ khơi dậy
bản năng sinh vật ở gã đàn ông say rượu Chí Phèo, thì sau đó, sự chân thành của thị Nở đã làm thức dậy bản chất lương thiện trong anh. Đoạn văn viết về sự thức tỉnh của tâm hồn trong Chí Phèo sau lần gặp gỡ với thị Nở là một đoạn tuyệt bút, đầy chất thơ. Sáng hôm ấy, sau khi tỉnh dậy, Chí Phèo thấy lòng bâng khuâng mơ hồ buồn. Bên ngoài là tiếng chim hót vui vẻ, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuôi cá, tiếng cười nói của những người đàn bà đi chợ về... những âm thanh bình thường quen thuộc ấy bỗng trở thành tiêng gọi của sự sông và đã lay động sâu xa tâm hồn Chí Phèo. Cuộc gặp gỡ thị Nở đã lóe sáng như một tia chớp trong cuộc đời tối tăm dằng dặc của anh. Anh bỗng nhận ra tất cả tình trạng bi đát của số phận mình. Tình yêu thương đã thức tỉnh anh, và linh hồn của anh lâu nay phải bán cho quỷ đê đổi lấy miếng ăn thì giờ đây đã trở về. Anh bổng thấy thèm lương thiện, muốn làm hòa với mọi người biết bao! Tức là anh vô cùng khao khát được mọi người nhận anh trơ lại vào cái xã hội bàng phẳng, thân thiện của những người lương thiện. Tình yêu của thị Nở đã mở đường cho Chí Phèo trở lại làm người. Câu trả lời của thị Nở đã quyết định số phận của anh.
Nhưng con đường trở lại làm người của Chí Phèo vừa được hé mở ra thì bị đóng sầm lại. Bà cô thị Nở không cho phép cháu bà di lấy một thằng ... chỉ có một nghề rạch mặt ăn vạ. Nhưng trách gì bà ta! Cách nhìn của bà ta cũng chính là cách nhìn của mọi người làng Vũ Đại lâu nay đối với Chí Phèo. Tất cả quen coi anh là quỷ dữ mất rồi. Hôm nay, linh hồn anh trở về nhưng không ai nhận ra. Thế là Chí Phèo thật sự rơi vào một bi kịch tinh thần đau đớn. Khi hiếu ra rằng xã hội dứt khoát cự tuyệt mình, Chí Phèo vật vã trong cơn đau đớn, tuyệt vọng. Hắn quay lại uống, lại uống... nhưng càng uống càng tỉnh ra. Tỉnh ra để thấm thìa nỗi đau vô hạn của thân phận mình. Rồi hắn ôm mặt khóc rưng rức cho đến khi uống đến say mềm và lại xách dao ra đi, lại vừa đi vừa chửi... như mọi lần. Nhưng lại khác hẳn mọi lần. Trong cơn đau đớn vì tuyệt vọng. Chí Phèo càng thấm thìa tội ác của kẻ thù và tình trạng tuyệt vọng vô phương cứu chữa của đời mình. Anh đến trước mặt bá Kiến, đanh thép kết án lão và giết chết lão, sau đó, anh tự sát. Anh không muốn sống nữa vì giờ đây, ý thức về nhân phẩm đã trở về, anh không thê Sống kiêu lưu manh, sống như thú vật được nữa, nhưng xã hội lại không cho anh sông cuộc sống con người! Vậy là anh phải chết! Anh' đã chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc đời, khi cánh cửa cuộc đời dóng chặt trước anh. Chí Phèo chết quằn quại trẽn vũng máu tươi của mình, chết trong niềm đau thương tột cùng vì nỗi khát khao mãnh liệt, thiêng liêng của anh là được sông làm người đã không trở thành hiện thực. Câu hói cuối cùng của Chí Phèo: Ai cho tao lương thiện?” là câu hói chất chứa phần uất, đau đớn, còn làm ray rứt người đọc đến tận hôm nay.
Câu hỏi ấy đã có đúc cả giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm một cách sâu sắc và thấm thìa. Làm thế nào để con người được sống cuộc sống của con người trong xã hội tàn bạo ngột ngạt, vùi dập nhân tính
ấy? Qua hình tượng Chí Phèo, ngòi bút nhân đạo của Nam Cao đã đặt ra câu hỏi lớn ấy. Đó là một vấn đề có ý nghĩa xã hội lớn lao và đưa Chí Phèo lên những tác phẩm hay nhất, có giá trị nhất trong văn học hiện đại.