399B Trường Chinh, phường 14, quận Tân Bình, TP.HCM
BÀI LÀM
Trên bầu trời văn chương Việt Nam, Nguyễn Đình Chiểu như ngôi sao sáng, càng nhìn càng sáng .Văn chương ông sáng ngời đạo lí ở đời và lấp lánh ánh sáng của tư tưởng yêu nước. Ông đã để lại cho hậu thế những tác phẩm bất hủ như: Truyện Lục Vân Tiên, Ngư Tiều y thuật vấn đáp, nhiều bài thơ, bài văn tế... Nổi tiếng và gây xúc động nhất là Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, ở bài văn này, lần đầu tiên, hình ảnh người nông dân nghĩa sỉ được coi như ‘một phát hiện mới, nhà thơ dành cho vị trí chưa từng có trong văn chương‘, họ trở thành nhân vật chính - anh hùng của thời đại.
Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Đình Chiểu sáng tác bài vàn tế theo thể phú Đường luật (phú cận thể), một thể loại dùng trong tang ma phúng điếu với nội dung chủ yếu là ngợi ca công đức những người nông dân nghĩa sĩ đánh Pháp cuối thế ký XIX. Có lẽ, nhân vật người nghĩa sĩ hi sinh vì nước có tầm cỡ lớn lao, đáng kính phục... thích hợp với một hình thức diễn đạt tiếc thương và trang trọng như vậy!
ơ phần Lung khởi (phần mở đầu), Nguyễn Đình Chiếu đã nói về thời cuộc, khái quát về cuộc đời nhân vật. Trong câu mở đầu ‘Súng giặc đất rền, Lòng dân trời tỏ ‘ đối nhau một cách hoàn chinh, diễn tả hai nội dung của thời đại rất cụ thể: giặc xâm lược, có vũ khí hiện đại, dân ta chống xâm lược, chỉ bằng lòng yêu nước. Người nghĩa sĩ đã thế hiện lòng yêu nước và căm thù giặc trong bôi cảnh như thế. Câu văn như báo trước
số phận éo lo, báo trước sự hi sinh của nhân vật là tất yêu, Cho nên ‘Mười năm công vỡ ruộng ‘, ít ai biết đến họ, thế mà chỉ ‘một trận nghĩa đánh Tây ‘ - ‘tuy là mất ‘, là chết - danh tiếng họ đã ‘vang như mõ ‘. Từ những con người bình thường sống sau lũy tre, rặng dừa, mái lá..., họ vụt trỞ thành nổi tiếng, vì nghĩa lớn mà hi sinh. Và họ đã trở thành những anh hùng nghĩa sĩ của thời đại đau thương và anh dũng.
Lời ca ngợi họ, bắt đầu từ một cuộc sống lao động thầm, cực khổ đến một cuộc đời chiến đâu anh dũng, vẻ vang. cuộc sống lao động vất vả trong đời họ, được nhà văn thâu tóm trong hai câu Thích thực mở đầu khá trọn vẹn: ‘Côi cút làm ăn Toan lo nghèo khó‘. Hai nét bản chất ấy được triển khai làm rõ hơn ở những chi tiết giản dị, cụ thể, mộc mạc nhưng tiêu biểu, chọn lọc:
Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung;
Chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ.
Việc cuốc, việc cày, vừa bừa, việc cấy, tay vốn quen làm Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ mắt chưa từng ngó‘.
Ở đây có hai chi tiết: những cái họ biết, họ quen và những cái họ chưa quen, chưa từng ngó. Với hai loại chi tiết này, có thể kết luận rằng: họ chỉ là những người nông dân nghèo khổ, cần cù, gắn bó với làng quê thanh bình, chưa hề biết việc đao binh, chiến trận.
Cho nên, khi giặc Pháp kéo tới với ‘tàu thiếc, tàu đồng ‘, họ đã phải trải qua một tâm trạng lo âu, phẩp phỏng. HỌ ‘trông tin quan như trời hạn trông mưa ‘. Và họ đã thất vọng vì đã ‘hơn mươi tháng‘, triều đình vẫn không thực hiện trách nhiệm cứu dân cứu nước vôn là trách nhiệm của vua, quan. Họ đã bị bỏ rơi!
Sông trong vùng giặc chiếm đóng ‘mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm ‘, họ căm ghét ‘thói mọi ‘ một cách cảm tính, tự nhiên ‘như nhà nông ghét cỏ ‘. Nỗi căm ghét ngày một lớn lên trước sự nghênh ngang khiêu khích của những ‘bòng bong che trắng lốp ‘, những ‘ông khói chạy đen sì ‘ trông đến nhưc mắt. Họ đã muốn ‘tới ăn gan ‘, muôn ‘ra cán cổ ‘, giét và xóa sạch lũ giặc Lang Sa.
Bị triều đình bó rơi trong vùng đất giặc chiếm đáng, họ ý thức được vai trò của cá nhân mình và ý thức được trách nhiệm đối với nền độc lập của Tô Quốc. Tố quốc (một mối xa thư dồ sộ) và chân lí độc lập đã được khẳng định (hai vầng nhật nguyệt chói lòa) không thê bị xâm phạm như một chôn không người. Họ ‘há dể ai chém rán đuối hươu ‘. Họ ‘dâu dung lũ treo dê bán chó ‘. Triều đình không đánh giặc thì họ phải nhận lấy nghĩa vụ thiêng liêng này. Ra trận đánh giặc đối với họ là việc tự nguyện hoàn toàn:
Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình;
Chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dôc ra tay bộ hố.
Những từ ‘xin ra sức ‘, ‘dốc ra tay ‘ diễn tả thật sinh động và chính xác ý thức tự nguyện của họ. Thời cuộc và hoàn cảnh sông cụ thể, nỗi nhức nhôi và tủi nhục mất nước, ý thức về dân tộc và đất nước đã biên những người nông dân hiền lành thành những nghĩa quân chiến đấu vì đại nghĩa. Họ đã trở thành người nghĩa sĩ tự nguyện gánh vác việc đánh giặc, cứu nước, cứu nhà.
Trở thành ‘quân chiêu mộ ‘, họ vẫn là ‘dân ấp dân lân ‘ chưa hề ‘tập rèn ‘ ‘võ luyện ‘, không hề biết, đến ‘binh thứ’. Họ chỉ có một tấm lòng ‘mến nghĩa ‘, vì đại nghĩa - trang bị thay cho những điều cơ bản của việc binh đao! Cuộc đời nghèo khó của họ thế nào thì họ xuất hiện trôn chiến trường như vậy. Họ chỉ có ‘một manh áo vải ‘, ‘trong tay cầm một ngọn tầm vông ‘, hay ‘rơm con cúi ‘, ‘lưỡi dao phay‘... Đó không phải là vũ khí mà là những vật dụng thường ngày dùng trong sinh hoạt và lao động. So sánh với những ‘đạn nhỏ đạn to ‘, ‘tàu thiếc tàu đồng ‘ của quân thù, ta không khỏi kinh ngạc và ngậm ngùi bởi một cuộc chiến không cân sức. ‘Lòng dân trời tỏ ‘ là ở chỗ này chăng?
Với những câu văn gối hạc bị ngắt thành ba vế, với hàng loạt động từ nhanh và mạnh, với những chi tiết dồn dập..., Nguyễn Đình Chiểu đã khắc họa được khoảnh khắc hào hùng của nghĩa sĩ trong chiến trận:
Chi nhọc quan quản gióng trống kì, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc củng như không;
Nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ dạn to, xô cửa xông vào liều mình như chẳng có.
Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà, ma 11Í hồn kinh;
Bọn hè trước, lủ ó sau, trối kệ tàu thiếc tàu đổng súng nổ.
Hai câu văn tế vừa khắc họa dũng khí, sự can đảm đến liều mình của người nghĩa sĩ khiến quân thù phải khiếp sợ, vừa diễn tả cách đánh ‘đâm ngang ‘, ‘chém ngược ‘ của những người nông dân chưa thạo chiến trận. Và tất yếu, tuy tỏ được lòng mình nhưng họ đã hi sinh! Ngậm ngùi thay! Cảnh: ‘Mẹ già ngồi khóc trẻ ‘, ‘vợ yếu chạy tìm chồng‘... khiến ta đau xót và thấu hiểu sâu sắc hơn sự hi sinh của họ vì đại nghĩa lớn đến chừng nào?
Tóm lại, hình ảnh nghĩa sĩ phần lớn được thể hiện ở phần Thích thực của bài văn tế. Ở phần này, cuộc đời của nhân vật đã được kể lại khá rõ như đã nói ở trên. Tuy nhiên, ở những phần khác của bài văn, qua lời than tiếc (Ai điếu) và lời vĩnh biệt (Ai vãn) của tác giả... hình bóng họ vẫn thấp thoáng ẩn hiện trong lòng người, trong lòng non sông đất nước. Họ ra đi nhưng còn để lại ‘mẹ già ‘, ‘vợ yếu ‘, để lại ‘Bến Nghé ‘, ‘Đồng
Nai ‘ còn ‘bốn phía mây đen ‘. Tuy vậy, họ vẫn là những con người ‘sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc ‘, ‘danh thơm đồn sáu tỉnh, chúng đều khen‘... Họ đã trở thành những anh hùng bất tử!
Có thể nói trong văn chương Việt Nam, lần đầu tiên nhân vật người nông dân vì nghĩa được khắc họa sâu đậm và toàn diện. Trước Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Trãi đã nói tới ‘dân ‘: ‘dân đen ‘, ‘con dỏ ‘, ‘kẻ cấy cày ‘, ‘nhân dân bốn cõi ‘... nhưng bóng dáng của họ là bóng dáng chung, chưa cụ thể như là những người ‘dân ấp dân lân ‘ vị nghĩa này. Nghĩa sĩ Cần Giuộc là những người nông dân Nam Bộ trong thế kỉ XIX ‘chưa quen cung ngựa ‘, đánh giặc bằng ‘dao phay ‘, ‘rơm con cúi ‘, nhưng đã ‘chém rớt đầu quan hai nọ‘... Hình ảnh những người sĩ phu, trí thức, nông dân chống Pháp còn được khắc họa trong nhiều tác phẩm của Đồ Chiểu như: Vãn tế Trương Định, Điếu Phan Tòng, Văn tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh, Hịch đánh Tây...
Qua Vãn tế nghĩa sĩ cần Giuộc, Nguyễn Đình Chiểu đã nhiệt liệt ca ngợi người nghĩa sĩ hi sinh vì nước trong những ngày đầu chống Pháp. Tình cảm mà ông dành cho họ phản ánh lòng yêu nước trong những ngày đầu chống Pháp. Tình cảm mà ông dành cho họ phản ánh lòng yêu nước, quan điểm chống Pháp mà ông thực hiện đến trọn đời. Tên tuổi, cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Đình Chiểu mãi mãi là tấm gương sáng, vì nước quên mình cho các thế hệ sau noi theo.