399B Trường Chinh, phường 14, quận Tân Bình, TP.HCM
Bài làm
Lê Hữu Trác (1720 - 1791) hiệu là Hải Thượng Lãn Ông, một đại danh y của Đại Việt. Ngoài những trước tác về y học trong bộ ”Y tông tâm lĩnh" gồm 66 quyền, ông còn để lại nhiều thơ văn, trong đó có tác phẩm độc đáo “Thượng Kinh ki sự'. Thơ văn,của Tan Ông nhẹ nhàng, hóm hỉnh, giàu tính hiện thực, phản ánh một nhân cách cao dẹp: coi thường công danh phú quý, yêu thiên nhiên, yêu quý đồng loại, thích cuộc sống thanh nhàn.
“Thượng Kinh kí sụ” ghi lại hành trình của ông lên Kinh đô Thảng Long chữa bệnh cho Thế tử Trịnh Cán. Đoạn văn “Vào Trịnh Phù” trích trong cuốn kí sự ấy rất giàu giá trị hiện thực và cho thấy một ngòi bút đậm đà, tài hoà.
1. Cảnh vàng son của Trịnh Phủ
Lần đầu, Lê Hữu Trác được vào Trịnh Phủ. Ông ngẫm nghĩ và quan sát rất kỹ càng. Cửa sau vào phủ chúa phải đi qua con đường bên trái, ông ngẩng đầu lên nhìn một khung cảnh tuyệt đẹp “đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoà đua thắm, gió đung đưa thoang thoảng mùi hương”.
Nơi cung cấm, hành lang “quanh co nối nhau liên tiếp", người giữ cửa, vệ sĩ canh giữ nghiêm ngặt, ai muốn vào ra phải có thè, người có việc quan qua lại như mắc cửi, “truyền háo rộn ràng”.
Quan sát cảnh cung cấm, Lê Hữu Trác ngẫm nghĩ: “Bước chận đến đây mới hay các cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường”. Rồi ông làm thơ nói lên sự ngạc nhiên, xúc động cùa minh tựa như “ngư phù đào nguyên thuở nào”: “Cả trời Nam sang nhất là dây!
Lầu từng gác vẽ tung mây,
Rèm châu, hiên ngọc, hóng mai ánh vào.
Hoà cung thoảng ngạt ngào đưa tới,
Vườn ngự nghe vẹt nói đòi phen..
Ông thầy thuốc trên đường đi khám bệnh, mang tâm hồn thi sĩ, tả cảnh, vịnh thơ, ta tưởng như ông đang đi thảm thú cảnh đẹp. Cách viết kí sự của Lê Hữu Trác hấp dẫn ta vì thế!
Trong Trịnh phủ, cung điện nguy nga tráng lộ. Mỗi lâu đài, cung điện có một cái tên riêng. Là “Điếm Hậu mã quán túc trực” làm bên một cái hồ, cột và bao lơn “lượn vòng kiểu cách thật là xinh đẹp", phía ngoài có những cây “lạ lùng", có những hòn đá “kì lạ”. Nhà “Đại Đường” còn gọi là “Quvển Hồng”. Là cái lầu cao và rộng, “cột đểu sơn son thiếp vàng” gọi là “Gác Tía”, nơi Thế tử dùng “chè thuốc”, nên gọi là “Phòng Chè”.
Lê Hữu Trác có phần choáng ngợp sợ hãi “chỉ dám liếc mắt nhìn rồi lại cúi dầu đi”. Cảnh đẹp nơi Trịnh phủ, từ vườn hoà đến hổ, từ lầu son đến gác tía là công trình vàn hoá nghệ thuật do tài trí công sức của nhân dân làm nên, vì thế Lê Hữu Trác đã xúc động ngắm nhìn. Cảnh đẹp nơi Trịnh phủ được miêu tả còn mang ý nghĩa hiện thực phản ánh cuộc sống xa hoà của bọn vua chúa thời Lê - Trịnh, cảnh giàu sang “khác hẳn người thường”.
2. Cảnh sinh hoạt của vua chúa, triều thần
Phương tiện đi lại của vua chúa là hai cái kiệu; đồ nghi trượng đều sơn son thiếp vàng. Thứ để ngói và nằm là một cái sập thiếp vàng, trên sập mắc một cái võng điều đỏ. Xung quanh cái sập bày bàn ghế vô cùng quý giá, sang trọng làm cho ông thầy thuốc phải tấm tắc và cảm thấy “những đổ đạc nhân gian chưa từng thấy”.
Thế tử - con bệnh - là con Trời, mới lên 5, 6 tuổi mặc áo lụa đỏ, ngồi trên cái sập thiếp vàng. Bên cạnh sập đặt một cái ghế rồng sơn son thiếp vàng, trên ghế bày 28
nệm gấm, Lê Hữu Trác phải đi qua năm. sáu lần trướng gấm mới đến được nơi Thế tử ngồi để “lạy bốn lạy" trước và sau khi khám bênh. Nơi nội cung, đèn sáp chiếu sáng, sau chiếc màn là cung nhân đứng xúm xít, “mặt phấn, màu áo đổ". Cả một không gian “lấp lánh, hương hoà ngào ngạt". Thật đúng “Cả trời Nam sang nhất là đây!".
Vua chúa và bọn quan lại trong phủ chúa ăn uống như thế nào? Tại điếm “Hậu Mã", lần đầu tiên và cũng là lần duy nhất trong cuộc đời, vị đại danh y được ăn một bữa cơm ngon nhớ mãi. Tuý chì được quan Chánh đường “san múm cơm cho ăn ”, nhưng “mâm vàng, chén bạc, đồ ăn toàn là cùa ngon vật lạ". Ông thầy thuốc mà danh tiếng “như sấm động" đã suy nghĩ và nói: “tôi bấy giờ mới biết cái phong vị của nhà đại gia”.
Chốn đế đỏ cung cấm là nơi “lính nghìn của vác đòng nghiêm nhặt". Lê Hữu Trác chỉ mới được đặt chân tới một vài cung điện, mới tiếp xúc một vài cảnh, một số ít người, nhưng ông đã nêu bật được cuộc sống xa hoà, hưởng lạc của vua chúa thời Lê - Trịnh. Cuộc sống đế vương được xây dựng trên mồ hôi xương máu của nhân dân, mọi thứ ngon của lạ do người lao động cả nước làm ra bị tước đoạt cho một số ít người hưởng thụ. “Cơm ngự thiện bữa nghìn quan" xưa nay đều thế! Tác giả “Thượng Kinh ki sự' có một lối viết rất hiện thực và ấn tượng, mọi chi tiết được ổng nói đến rất sống.
3. Cảm nghĩ của tác giả lúc khâm bệnh và ké đơn cho Thế tử
Lê Hữu Trác vốn dòng dõi thế tộc thời Lê sinh trưởng ở chốn phồn hoà, trong cấm thành chỗ nào cũng đã từng biết, nhưng Trịnh phủ thì “ông mới nghe nói thôi", lần đầu đi vào ông choáng ngợp như bước vào cảnh thần tiên:
“Quê mùa cung cấm chưa quen ,
Khác gì ngư phù Đào nguyên thuở nào!".
Coi thường danh lợi, ống đã vào tận Hương Sơn, Hà Tĩnh sinh sống, chuyên tâm nghề y, chữa bệnh cứu người làm lẽ sống. Vì có tài, tiếng tăm như sấm động nên có thánh chỉ triệu vào cung chữa bệnh cho Thế tử. Ông viết một cách hóm hỉnh về cái bả công danh: “Cáng chạy như ngựa lồng, tôi bị xóc một mẻ, khổ không nói hết!". Nửa thế ki sau, Cao Bá Quát chua chát viết: “ơn vua kèm theo sấm sét!".
Tiếp xúc với cảnh và người nơi Trịnh phủ, Lê Hữu Trác có lúc mất tự nhiên, có lúc sợ sệt, hoặc “cúi đầu đi", hoặc “liếc mắt nhìn". Lúc xem mạch thì “khúm núm” phải hai lần vái lạy một đứa bé đô 5, 6 tuổi, mỗi lần bốn lạy!
Lúc kê đơn là một cuộc tự đấu tranh tư tưởng diễn ra vô cùng gay gắt xung quanh vấn đề danh lợi, y đức và chữ nhàn. Ông nghĩ: “Nếu mình làm có kết quá ngay thì sẽ bị danh lợi nó ràng buộc, không làm sao về núi được", về núi để được sống tự do, thảnh thơi, chan hoà với thiên nhiên. “Lưng khôn lốn, lộc nên từ' là thế!
Lương tâm bậc danh y lại nhắc nhở ông “phải dốc hết cả cái lòng thành, để nối tiếp cái lòng trung cùa ông cha mình mới được”. Cái lòng thành mà ổng nói đến là lương y như từ mẫu, là y đức coi việcchữa bệnh cứu người là lẽ sống cao đẹp. Vì thế, mặc dù quan Chánh đường có gợi ý nên dùng những vị thuốc "phát tán mới
xong”, mặc dù có năm, sáu vị lương y cùa sáu cung hai viện đang ngày đêm chầu chực xung quanh con bệnh, nhưng Lê Hữu Trác vẫn có chủ kiến riêng, lập luận riêng của mình:
"Tôi thấy thánh thể gầy, mạch lại tế sác. Thế là âm dương đểu bị tổn hại, nay phải dùng thuốc thật hổ để bồi dưỡng tì và thận, cốt giữ cái căn bản tiên thiên và làm nguồn gốc cho cái hậu thiên...".
Qua đó, ta thấy tài năng và đức độ cùa Lê Hữu Trác, một đại danh y coi thường danh lợi, sống thanh bạch, thích nhàn, lấy việc trị bệnh cứu người, đật tên trên hết, lên trước hết. Biệt hiệu "Lãn Ông" thật giàu ý nghĩa: ông già lười, lười làm quan và biếng danh lợi.
Đoạn văn "Vào Trịnh phù” thật hay và thú vị, ta cảm thấy mình được tác giả dẫn đi xem cung điện Thăng Long then Lê - Trịnh. Đoạn văn cũng như tác phẩm "Thượng Kinh kí sự' vừa có giá trị văn chương vừa giàu giá trị lịch sử.
Đoạn văn rất giàu tính hiện thực, nó đã phản ánh chân thực cảnh vàng son nơi Trịnh phủ và cuộc sống xa hoà, phú quý của vua chúa, quan lại thời Lê - Trịnh.
Cách viết của Lãn Ông rất đặc sắc hấp dẫn. Vừa tả, vừa kể, vừa lồng ý nghĩ cảm xúc, rất chân thực, hóm hỉnh. Ngôn ngữ văn chương, ngôn ngữ đời thường, ngôn ngữ cung đình, ngôn ngữ chuyên môn về y học được tác giả sử dụng rất sáng tạo, biến hóa.
"Vào Trịnh phù", đoạn kí sự giàu chất thơ đã phản chiếu vào một tâm hồn đẹp, một nhân cách cao quý.