399B Trường Chinh, phường 14, quận Tân Bình, TP.HCM
Kiều Nguyệt Nga đi cống giặc Ô Qua.
(Trích Truyện Lục Vân Tiên')
‘Mười ngày đã tới ải Đồng,
Minh mông hiển rộng, đùng đùng sóng xao.
Đêm nay chẳng biết đém nào,
Bóng trăng vãng vặc, hóng sao mờ mờ.
Trên trời lặng lẽ như tờ,
Nguyệt Nga nhớ nổi tóc tơ chẳng tròn.
Than rằng: ‘Nọ nước kìa non,
Cảnh thời thấy dó, người còn vê đâu?’
Quản hầu đều dã ngủ lâu, lÁn ra mở hức rèm châu một mình:
‘Vắng người có hóng trăng thanh,
Trăm năm xin gởi chút tình lạiđây.
Vân Tiên anh hỡi cố hay?
Thiếp nguyễn một tấm lòng ngay với chàng’
Than rồi lấy tượng vai mang,
Nhằm dòng nước chày vội vàng nhảy ngay.’
Cảm nhận của em khỉ đọc đoạn thơ trên.
Bài làm
Không thể nào mua chuộc, ép buộc Kiều Nguyệt Nga lấy con trai mình, quan Thái Sư đã trả thù một cách xảo quyệt, hèn hạ. Ăn không được thì phải đạp đổ. Kiều Nguyệt Nga trở thành vật hi sinh. Người đẹp trở thành cống phẩm dâng chúa Ô Qua để giặc lui binh.
Đoạn thơ ghi lại tâm trạng đau khổ cùa Nguyệt Nga trên đường đi cống giặc và ca ngợi tấm lòng son sắt thuỷ chung trong tình yêu của nàng.
Nguyệt Nga là một thiêu nữ xinh đẹp ‘vóc ngọc minh vàng’ có thị tì Kim Liên hầu hạ. Nàng xuất thân trong tầng lớp quý tộc, là ‘con quan tri phù ở miền Hà Khê’. Nguyệt Nga là một con người giàu lòng trung nghĩa; trước hành động nghĩa hiệp của Lục Vân Tiên, nàng đã nói:
‘Gẫm câu háo đức thù công,
Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi.’
Cảm phục trước hành động anh hùng và hào hiệp của người con trai xa lạ vừa đánh cướp cứu mình, Kiều Nguyệt Nga đã khắc sâu trong trái tim mình hình ảnh Lục Vân Tiên, và nàng đã vẽ bức tượng hình chàng luôn mang theo bên mình. Con gái Kiều Công quả là một thiêu nữ đa cảm, đa tình. Mối tình đơn phương ấy thật đẹp và son sắt thủy chung.
Bị bắt đi cống giặc là một thử thách đầy bi kịch. Đã mười ngày trôi qua, Kiều Nguyệt Nga đã đi tới ải Đổng, bên này là quê hương mình, bên kia là xứ người, là đất giặc Ô Qua.
Dòng sông bao la ‘minh mông’, tiếng sóng vỗ ‘đùng đùng’, trăng ‘vằng vặc’, sao ‘mờ mờ' gần xa. Cả một bầu trời ‘lặng lẽ như tờ’. Nguyễn Đình Chiểu đã lấy ngoại cảnh sông, nước, trăng, sao để diễn tả tâm trạng cô đơn của người đẹp trên đường đi cống; lấy tĩnh để tả động, trời thì ‘lặng lẻ’ màtrong lòng kẻ bạc mệnh thì quặn đau tê tái và cô đơn. Sóng vổ trên sông hay đang vỗ trong lòng nàng?
‘Mười ngày đã tới ải Đồng,
Minh mông hiển rộng, đùng đùng sóng xao.
Đêm nay chẳng biết đêm nào,
Bóng trăng vảng vặc, hóng sao mờ mờ.
Trên trời lặng lẽ như tờ.’
Trước cảnh xa lạ, bao la và mịt mờ ấy, Kiều Nguyệt Nga cất lời than. Vừa thương mình vừa thương người quân tử mà mình đã mang năng ân sâu; chàng trai anh hùng hào hiệp mà mình đã yêu dấu sắt son, đã thủ tiết đợi chờ
‘Than rằng: ‘Nọ nước kìa non,
Cảnh thời thấy đó, người còn vê đâu?’
‘Người’mà Kiều Nguyệt Nga nhắc đến chính là Lục Vân Tiên. Câu hỏi ‘người cỏn vé đâu’ chứa đầy tâm trạng đau đón, cô đơn và sầu. tủi.
Nếu như Nguyễn Du dùng hai câu tả cảnh vật giờ khắc quyết định tự tử cùa Kiều trên sông tiền Đường: ‘Của hổng vội mở rèm châu - Trời cao sông rộng một màu hao la’, thì ở đây, Nguyễn Đình Chiểu cũng đã viết cái phút đớn đau ấy cua Kiều Nguyệt Nga bằng những vần thơ ứa lệ:
‘Quân hầu đêu đã ngủ lâu,
Lén ra mỏ hức rèm châu một mình.’
Giai nhân mệnh bạc tự thương và tự than thân. Vầng trăng trên trời cao là chứng nhân cho lời thề son sắt thuỷ chung, cho quyết tâm ‘giữ ngọc gìn vàng’ của
người thiếu nữ, ‘thủ tiết’ hằng cái chết để giữ trọn ‘một tấm lòng ngay’ với tình nhân mà mình đã từng tôn thờ, đã từng ôm ấp:
‘Vắng người có hóng trăng thanh,
Trăm nám xin gởi chút tình lại đáy.
Vân Tiên anh hỡi có hay Thiếp nguyên một tấm lòng ngay với chàng.’
Bao nhiêu nước mắt đã chảy xuống? Để giữ trọn ‘tấm lòng ngay với chàng’, Kiều Nguyệt Nga đã hành động một cách quyết liệt:
‘Than rồi lấy tượng vai mang,
Nhắm dòng nước chày vội vàng nhảy ngay.’
Lúc xa cách thì vẽ chân dung người yêu để sớm tối được ôm ấp, ngắm nghía. Lúc sống trong lận đận khó khăn, hình tượng người yêu là nơi nương tựa tinh thần. Lúc nhảy xuống sông tự tử, Kiều Nguyệt Nga vẫn vai mang tượng Lục ‘Vân Tiên đi sang thế giới bên kia với lời nguyên son sắt thuỷ chung.
Cũng là bi kịch giai nhân xưa nay, nhưng mỗi người một khác. Cũng là ‘phận hồng nhan’, ‘chốn đoạn trường’ nhưng nào ai giống ai? Sau khi Từ Hải vì mắc lừa Hồ Tôn Hiên mà bị giết chết, Kiều phải hầu rượu đánh đàn trong bữa tiệc quan, rồi bị ép lấy viên thổ quan, nàng phải nhảy xuống sông Tiền Đường tự tử:
‘Giết chồng mà lại lấy chồng,
Mặt nào còn dứng ở trong cõi đời?
Thôi thì một thác cho rồi,
Tấm lòng phó mặc trên trời dưới sông.’
Kiều phải tự tử vì đau khổ và ân hận. Kiều Nguyệt Nga phải nhảy xuống sông để ‘già' chút tình’ với trăng nước, để giữ tròn ‘tấm lòng ngay’ với Lục Vân Tiên. Tiết hạnh của Kiều Nguyệt Nga vằng vặc như trăng sao. Hành động tự tử của Kiều Nguyệt Nga là để thủ tiết với Lục Vân Tiên, là để chống lại mọi âm mưuhèn hạ, xảo quyệt của tên Thái Sư, vị đại quan đầu triều.
Đoạn thơ đã thể hiện bút pháp nghệ thuật tả cảnh ngụ tình cùa Nguyễn Đình Chiểu. Sự kết hợp hài hoà giữa miêu tả, tự sự và độc thoại trữ tình đã tồ đậm tính cách Kiều Nguyệt Nga: son sắt, thuỷ chung và tiết hạnh.
Nhân vật Kiều Nguyệt Nga là một nhân vật lí tưởng của Nguyên jữtnh Chiểu,' đã nêu cao tấm gương tiết hạnh của một giai nhân:
‘Gái thời tiết hạnh là câu trau mình.’
Phẩm giá của người con gái khuê các trong xã hội ngày xưa được thể hiện qua đoạn thơ này vẫn ít nhiều làm ta xúc động?