399B Trường Chinh, phường 14, quận Tân Bình, TP.HCM
Bài làm
‘đồng chí' là bài thơ hay nhất của Chính Hữu viết về người nông dân mặc áo lính trong những năm đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Bài thơ được viết vào đầu xuân 1948, sau chiến thắng Việt Bắc thu đông 1947, nó đã đi qua một hành trình nửa thế ki, làm sang trọng một hồn thơ chiến sĩ của Chính Hữu.
Hai mươi dòng thơ, với ngôn ngữ bình dị, giọng điệu thủ thỉ tâm tình, cảm xúc dồn nén, hình tượng thơ phát sáng, có một vài câu thơ để lại nhiều ngỡ ngàng cho bạn đọc trẻ ngày nay.
Bài thơ ‘đồng chí’ ca ngợi tình đổng đội gian khổ có nhau, vào sinh ra tử có nhau của các anh bộ dội Cụ Hồ, những người nông dân yêu nước đi bộ đội đánh giặc trong những năm đẩu gian khổ thời 9 năm kháng chiến chống Pháp (1946 -1954).
Hai câu thơ đầu cấu trúc song hành, đối xứng làm hiện lên hai ‘gương mật’ người chiến sĩ rất trẻ, như đang tâm sự cùng nhau, Giọng điệu tâm tình của một tình bạn thân thiết:
‘Quê hương anh nước mận, đồng chua,
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá’.
Quê hương anh và làng tôi đều nghèo khổ, là nơi ‘nước mặn, đổng chua’, là xứ sở ‘đất cày lên sỏi đá’. Mượn tục ngữ, thành ngữ để nói vế làng quê, nơi chốn nhau cắt rốn thân yêu cùa mình, Chính Hữu đã làm cho lời thơ bình dị, chất thơ mộc mạc, đáng yêu như tâm hồn người trai cày ra trận đánh giặc. Sự đổng cảnh, đồng cảm và hiểu nhau là cơ sở, là cái gốc làm nên tình bạn, tình đồng chí sau này.
Năm câu thơ tiếp theo nói lên một quá trình thương mến: từ ‘đôi người xa lạ’ rồi ‘thành đôi tri kỉ’, vè sau kết thành ‘đồng chí’. Câu thơ biến hóa, 7, 8 từ rồi rút lại, nén xuống 2 từ. cảm xúc vẩn thơ như dồn tụ lại, nén chạt lại. Những ngày đầu đứng dưới lá quân kì: ‘Ánh với tôi đôi người xa lạ - Tự phương trời chưng hẹn quen nhau’. Đôi bạn gắn bó với nhau bàng bao kỉ niệm đẹp:
‘Súng hên súng, đầu sát hên đẩu,
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ Đồng chí!’
‘Súng bên súng’là cách nói hàm súc, hình tượng: cùng chung lí tướng chiến đấu; ‘anh với tôi’ cùng ra trận đánh giặc đê bảo vê đất nước quê hương, vì độc lập, tự do và sự sống còn của dân tộc. ‘Đấu sát ben đấu’ là hình ảnh diễn tả V hợp tàm đầu của đôi bạn tâm giao. Câu thơ ‘Đêm rét chung chân thành đói tri kỉ’ là câu thơ hay và cảm động, đầy ắp kỉ niệm một thời gian khổ. Chia ngọt sẻ bùi mới ‘thành dôi tri kì’. ‘Đôi tri kỉ’ là đỏi bạn rất thân, biết bạn như biết mình. Bạn chiến đấu thành tri kỉ, về sau trở thành đồng chí! Câu thơ 7, 8 từ đột ngột rút ngắn lại hai từ ‘đồng chí!’ diễn tả niềm tự hào xúc động ngân nga mãi trong lòng. Xúc động khi nghĩ về một tình bạn đẹp. Tự hào về mối tình đồng chí cao cả thiêng liêng, cùng chung lí tưởng chiến đấu của những người binh nhì vốn là những trai cày giàu lòng yêu nước ra trận đánh giặc. Các từ ngữ được sử dụng làm vị ngữ trong vẩn thơ: bẽn, sat, chung, thành - đã thể hiện sự gắn bó thiết tha của tình tri kỉ, tinh đồng chí. Cái tấm chăn mỏng mà ấm áp tình tri kỉ, tình đồng chí ấy mãi mãi là kỉ niệm đẹp của người lính, khống bao giờ có thể quên:
‘Oi núi tham rừng sâu Trung dội cũ vé dâu Biết chăng chiếu mưa mau Nơi dây chăn giá ngắt Nhớ cái rét han đầu Thấm môi tình Việt Bắc...’
(‘Chiều mưa đường số 5’ - Thâm Tâm)
Ba câu thơ tiếp theo nói lên hai người đồng chí cung nhau một nỗi nhớ: nhớ ruộng nương, nhớ bạn thân cày, nhớ gian nhà, nhớ giếng nước, gốc đa. Hình ảnh nào cũng thắm thiết một tình quẻ vơi đầy:
‘Ruộng nương anh gửi hạn thán cày,
Gian nhả không mặc kệ gió lung lay,
Giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính’.
Giếng nước góc đa là hình ảnh thán thương của làng qué được nói nhiêu trong ca dao xưa: ‘Cây da cũ, hến dò xưa... Gốc đa, giếng nước, sản dinh...’, được Chính Hữu vận dụng, đưa vào thơ rất đậm đà, nói ít mà gợi nhiêu, thấm thìa. Gian nhà, giếng nước, gốc đa được nhân hóa, đang đêm ngày dõi theo bóng hình anh trai cày ra trận ? Hay ‘người ra linh’ vẫn đêm ngày ôm ấp hình bóng quê hương ? Có cả 2 nỗi nhớ ở cả hai phía chân trời. Tinh yêu quê hương đã góp phần hình thành tình đồng chí, làm nên sức mạnh tinh thẩn để người lính vượt qua mọi thử thách gian lao, ác liệt thời máu lửa. Cũng nói về nỗi nhớ ấy, trong bài thơ ‘Bao giờ trở lại’, Hoàng Trung Thông viết:
‘Bấm tay tính buổi anh di,
Mẹ thường vẫn nhắc: biết khi nào về?
Lúa xanh xanh ngạt chân đê,
Anh đi là để giữ quê quán mình.
Cày đa hến nước sân đình,
Lời thẻ nhớ buổi mít tinh lén dường.
Hoà cưu thơm ngát đáu nương,
Anh di là giữ tinh thương dạt dào.
... Anh di chín đợi mười chờ,
Tin thường thắng trận, hao giờ vê anh?’
Bày câu thơ tiếp theo ngồn ngộn những chi tiết rất thực phản ánh hiện thực kháng chiến buổi đầu. Sau 80 năm bị thực dân Pháp thông trị, nhân dân ta đà quật khởi đứng lẽn giành lại non sông. Rồi với gậy tầm vông, với giáo mác... nhân dân ta phải chống lại xe tăng, đại bác của giặc Pháp xâm lược. Những ngày đầu kháng chiến, quân và dân ta trải qua muôn vàn khó khăn: thiếu vũ khí, thiêu quân trang, thiêu lương thực, thuốc men... Người lính ra trận ‘áo vải chân không di lùng giặc đánh’, áo quần rách tả tơi, ốm đau bệnh tật, sốt rét rừng, ‘Sót run người vừng trán ướt mổ hôi’:
‘Anh với tôi biết từng cơn ớn lanh,
Sất run người vừng trán ướt mổ hồi.
Áo anh rách vai Quấn tôi có vời mành vá Miệng cười buốt giá.
Chân không giày.’
Chữ ‘biết’ trong đoạn thơ này nghĩa là nếm trải, cùng chung chịu gian nan thứ thách. Các chữ: ‘Anh với tôi’, ‘Áo anh... quấn tôi’ xuất hiện trong đoạn thơ như một sự kết dính, gắn bó keo sơn tình đồng chí thắm thiết cao đẹp. Câu thơ 4 tiếng cấu trúc tương phản: ‘Miệng cười buốt giá’ thể hiện sâu sắc tinh thần lạc quan cùa hai chiến sĩ, hai đồng chí. Đoạn thơ được viết dưới hình thức liệt kê, cảm xúc từ dồn nén bỗng ào lên: ‘Thương nhau tay nấm lấy hàn tay’. Tinh thương đồng đội được biêu hiện bằng cử chỉ thân thiết, yêu thương: ‘tay nấm láy hàn tay’. Anh nắm lấy tay
tôi, tôi nắm lấy bàn tay anh, để động viên nhau, truyền cho nhau tình thương và sức mạnh, để vượt qua mọi thừ thách, ‘đi tới và lùm nên thắng trận’.
5.Phần cuối bài thơ ghi lại cảnh hai người chiến sĩ - hai đồng chí trong chiến đấu. Họ cùng ‘đứng cạnh hên nhau chờ giặc tới’. Cành tượng chiến trường là ‘rừng hoang sương muối’, một đêm đông vô cùng lạnh lẽo hoang vu giữa núi rừng chiến khu. Trong gian khổ ác liệt, trong căng thẳng ‘chờ giặc tới’, hai chiến sĩ vẫn ‘đứng cạnh hên nhau’, vào sinh ra tử có nhau. Đó là một đêm tràng trên chiến khu. Một tứ thơ đẹp bất ngờ xuất hiện:
‘Đáu súng trăng treo’.
Người chiến sĩ trên đường ra trân thì ‘ánh sao đầu súng hạn cùng mũ nan’. Người lính đi phục kích giặc giữa một đêm đông ‘rừng hoang sương muối’ thì có ‘đẩu súng trăng treo’. Cảnh vừa thực vừa mộng, về khuya trăng tà, trăng lơ lửng trên không như đang treo vào đầu súng. Vầng trâng là biểu tượng cho vẻ đẹp đất nước thanh bình. Súng mang ý nghĩa cuộc chiến đấu gian khổ hi sinh. ‘Đầu súng trăng treo’ là một hình ảnh thơ mộng, nói lên trong chiến đấu gian khổ, anh bộ đội vấn yêu đời, tình đồng chí thêm keo sơn gắn bó, họ cùng mơ ước một ngày mai đất nước thanh bình. Hình ảnh ‘Đấu súng tráng treo’ là một sáng tạo thi ca mang vẻ đẹp lãng mạn cùa thơ ca kháng chiến, đã được Chính Hữu lấy nó đặt tên cho tập thơ - đóa hoà đầu mùa của mình. Trăng Việt Bắc, tràng giữa núi ngàn chiến khu, trăng trên bầu trời, trăng tỏa trong màn sương mờ huyền ảo. Mượn trăng để tả cái vắng lặng cùa chiến trường, để tô đậm cái tư thế trầm tĩnh ‘chờ giặc tới’. Mọi gian nan căng thẳng cùa trận đánh sẽ diễn ra (?) đang nhường chỗ cho vẻ đẹp huyền diệu, thơ mộng cùa vầng trâng, và chính đó cũng là vẻ đẹp cao cả thiêng liêng của tình đồng chí , tình chiến đáu.
Bài thơ ‘Đống chí’ vừa mang vẻ đẹp giản dị, bình dị khi nói về đời sống vật chất của người chiến sĩ, lại vừa mang vẻ đẹp cao cả, thiêng liêng, thơ mộng khi nói về đời sống tâm hồn, vế tình đồng chí cùa các anh - người lính binh nhì buổi đầu kháng chiến.
Ngồn ngữ thơ hàm súc, mộc mạc như tiếng nói của người lính trong tâm sự, tâm tình. Tục ngữ, thành ngữ, ca dao được Chính Hữu vận dụng rất linh hoạt, tạo nên chất thơ dung dị, hồn nhiên, đậm dà. Sự kết hợp giữa bút pháp hiện thực và màu sắc lãng mạn chung đúc nên hồn thơ chiến sĩ.
‘Đồng chí' là bài thơ rất độc đáo viết về anh bộ đội Cụ Hồ - người nông dân mặc áo lính, những anh hùng áo vải trong thời đại Hồ Chí Minh. Bài thơ là một tượng đài chiến sĩ tráng lệ, mộc mạc và bình dị, cao cả vè thiêng liêng.