LÀM VĂN
Thông tin doanh nghiệp
NEWS  |  TAGS

399B Trường Chinh, phường 14, quận Tân Bình, TP.HCM

  • Phân tích
  • Phân tích bài thơ Chạy Giặc của Nguyễn Đình Chiểu.

Phân tích bài thơ Chạy Giặc của Nguyễn Đình Chiểu.

Ngôn ngữ hàm súc, nghiêm trang, chứa chan tình cảm, bài thơ thể hiện tâm hổn trung nghĩa của Nguyễn Đình Chiểu. Nó cho thấy tính mẫn cảm chính trị của nhà thơ yêu nước...

 

Bài làm

Có những tác phẩm văn chương bất tử khi nó trở thành chứng phân lịch sử, nó gắn liền với nỗi vui, buồn cùa một dân tộc. Bài thơ ‘Chạy giặc’ là một bài thơ mang ý nghĩa như vậy.

Năm 1859, thực dân Pháp tấn công thành Gia Định. Trước họa xâm lăng, Nguyễn Đình Chiểu đã viết bài thơ ‘Chạy giặc’. Bài thơ viết theo thế thất ngón bát cú Đường luật, phản ánh nỗi đau thương của dân lộc, câm thù lên án tội ác quân Pháp xâm lược và thể hiện lòng thương xót nhân dân:

‘Tan chợ vừa nghe tiếng súng Táy,

... Nở để dãn đen mắc nạn này?’

Hai câu đề nói lên một cục diện bi thảm của đất nước ta hồi bấy giờ. Giặc Pháp nổ súng đánh chiếm thành Gia Định. Trận đánh diễn ra như ‘một hàn cờ thế’ phút chốc thay đổi bất ngờ ‘phút sa tay’. Thành Gia Định thất thủ, Đổng Nai, Bên Nghé rơi vào tay giác. Vần thơ cất lên như một lời than:

‘Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây,

Một hàn cờ thế phút sa tay’

Các từ ngữ ‘vừa nghe tiếng súng Tây’, ‘phút sa tay’ làm nôi bật thời gian, sự việcdiễn ra bất ngờ, nhanh chóng và nói lên nỗi kinh hoàng của nhà thư, của nhân dân khi thành Gia Định bị giặc Tây nổ súng đánh chiếm. ‘Một hàn cờ thê’ là một ân dụ cách nói ước lệ, hàm súc về một cục diện chiến trường, một tình thế chiến tranh hồi ấy (1859).

Hai câu thực 3,4 tả cảnh chạy loạn, chạy giặc trong nỗi kinh hoàng của nhân dân. Các từ ngữ: ‘hò nhà’, ‘lơ xơ chạy’, ‘mất Ố', ‘dáo dát hay’ đặc tả sự tan nát, hoảng sợ, hãi hùng. Nhà thơ lấy thế giới con người là ‘lũ tre’', lây thế giới thiên nhiên là ‘đàn chim’, hai hình ảnh ấy điển hình cho nỗi đau thương của nhân dân trước thảm họa đất nước quê hương bị xâm lược:

‘Bỏ nhà lũ trê lơ xơ chạy,

Mất ổ đàn chim dáo dát hay.’                               '

Phép đảo ngữ đặt vị ngữ trước chủ ngữ để nhấn ý các chữ ‘hò nhà’ và ‘mất ồ' tạo nên nỗi ám ảnh bi thương về cảnh chạy giặc của dân lành.

Hai câu luận 5,6 đối nhau làm hiện lên hai cành tang thương điêu tàn nơi Bẽn Nghé và Đổng Nai. Gần 200 năm về trước, Bến Nghé đã là cảnh đô hội, sầm uất, trên bên dưới thuyên buôn bán tấp nập. Đổng Nai là vựa lúa miền Nam. Thế mà chì trong chốc lát đã bị giặc Pháp bắn giết, đốt phá, cướp bóc rất dã man. Tài sản của nhân dân ta bị chúng cướp phá sạch sành sanh ‘tan bọt nước’. Nhà cửa, phố phường, làng xóm của đồng bào ta bị quân xâm lược đốt phá tan hoang. Lửa khói ngút trời, bao phù một vùng rộng lớn ‘nhuốm màu mây’. Nhà thơ tả ít mà gợi nhiều. Chỉ bằng hai hình ảnh so sánh rất chọn lọc, đôi nhau: ‘của tiền tan bọt nước’, ‘tranh ngói nhuốm màu mây’ đã căm thù lên án tội ác tày trời của quân xâm lược. Nồi đau đớn và căm thù chứa đầy ván thơ:

‘Bến Nghé cùa tiên tan hụt nước,

Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu máy.’

Tội ác quân giặc không thê nào kể xiết! Nhà thơ tường như cất lời than uất hận trước tội ác ghê tởm của giặc Pháp:

‘Binh tướng nó hãy đóng sông Bến Nghé,

làm cho hôn phía mảy đen;

Ông cha ta còn ở đất Dồng Nai,

ai cứu một phường con dỏ .’

(‘Văn tế nghĩa sĩ cấn Giuộc’)

Sau khi hạ thành Gia Đinh, giặc Pháp đánh chiếm 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ. Cả một vùng rộng lớn cùa đất nước ta chìm trong máu lửa, Phan Văn Trị, người bạn thân cùa Nguyên Đinh Chiểu đã căm giận viết khi nghe tiếng kèn giặc:

‘Tò te kèn thổi tiếng nám ha, ■

Nghe lụt vào tai dạ xót xa.

Uốn khúc sông Rồng mù mịt khói,

Vắng hoe thành Phụng ù sầu hoà...’

(‘cảm tác’)

Hai câu kết, cảm xúc nghẹn lại bỗng trào lên, biểu lộ một tâm trạng đau đón, lo âu. Lo ấu cho tính mạng và tài sản của nhân dân ta đang bị giặc Pháp bắn giết, cướp phá dã man. Lo âu cho vận mệnh đen tối của đát nước. Câu hỏi tu từ thê’ hiện tình thương xót nhân dân đau khổ trước họa xâm lăng:

‘Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng,

Nỡ để dân đen mắc nạn này?’

‘Chạy giặc’là bài ca yêu nước thê hiện sâu sắc lòng câm thù giặc Pháp và nói lên tình thương xót nhấn dân trước họa xâm làng. Những cảnh mà nhà thơ nghe thấy (tiếng súng Tây), nhìn thấy, cảm thấy (lũ tre’ lơ xơ chạy, dàn chim dáo dát hay, cùa tiến tan bọt nước, tranh ngói nhuốm màu mây) là những chi tiết nghệ thuật rất hiên

thực mang giá trị lịch sử sâu sắc. Bài thơ ‘Chạy giặc’ là một chứng tích về tội ác giặc Pháp trong những ngày tháng đầu chúng xâm lược đất nước ta.

Ngôn ngữ hàm súc, nghiêm trang, chứa chan tình cảm, bài thơ thể hiện tâm hổn trung nghĩa của Nguyên Đình Chiểu. Nó cho thấy tính mẫn cảm chính trị của nhà thơ yêu nước ‘đâm mấy thằng gian hút chẳng tà’. Với ông, ‘thơ lả súng là gươm’ (‘Đọc thơ Đổ Chiểu’ - Lê Anh Xuân).