LÀM VĂN
Thông tin doanh nghiệp
NEWS  |  TAGS

399B Trường Chinh, phường 14, quận Tân Bình, TP.HCM

  • Nghị luận
  • Nghị luận về Bài thơ Muốn làm thằng Cuội của Tản Đà

Nghị luận về Bài thơ Muốn làm thằng Cuội của Tản Đà

Có ý kiến cho rằng: 'Bài thơ Muốn làm thằng Cuội của Tản Đà thể hiện tâm trạng buồn chán trước thực tại tầm thường, muốn thoát lỵ khỏi thực tại ấy bằng một ước vọng rất 'ngông' đồng thời cho chúng ta thấy một ngòi bút lãng mạn, phóng túng, nhuần nhị và rất có duyên.' Em hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.

Nghị luận về  Bài thơ Muốn làm thằng Cuội của Tản Đà

Bài làm

Tản Đà là một nhà thơ lãng tử đồng thời cũng là nhà văn chuyên nghiệp của dòng văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900 - 1930. Tản Đà đã để lại cho những người mê say văn chương nhiều tác phẩm đặc sắc. Bài thơ Muốn làm thằng Cuội là một điển hình. Có một nhận xét về nội dung và nghệ thuật của bài thơ này như sau:

"Bài thơ "Muốn làm thằng Cuội" của Tản Đà thể hiện tâm trạng buồn chán trước thực tại tầm thường, muốn thoát ly khỏi thực tại ấy bằng một ước vọng rất "ngông" đồng thời cho chúng ta thấy một ngòi bút lãng mạn, phóng túng, nhuần nhị và rất có duyên".

Thật vậy, ngay từ hai câu đề, Tản Đà đã mang nỗi buồn của mình tâm sự với chị Hằng:

"Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!

Trần thế em nay chán nửa rồi".

Theo truyền thuyết dân gian Việt Nam, ở trên cung trăng có thằng Cuội và chị Hằng Nga. Đêm thu trăng thường sáng tỏ là cơ hội để Tản Đà gặp chị Hằng trong trí tưởng tượng bay bổng và lãng mạn của mình.

Nhưng tại sao Tản Đà lại buồn và chán cảnh trần thế?

Khi Tản Đà cất tiếng khóc chào đời năm 1889 thì giặc Pháp đã đặt ách thống trị lên đất nước Việt Nam khoảng 31 năm. Phải chăng' đó là nỗi buồn và chán đầu tiên của thi sĩ?

Mặt khác, Tản Đà sinh trưởng trong một gia đình dòng dõi khoa bảng thời Lê nhưng cuộc đời không hạnh phúc như các cậu ấm -

con -của các vị quan khác. Nhà thơ bị hỏng thi nhiều lần, mối tình đầu tan theo sương khói mong manh. Việc đau lòng hơn là bà Phủ Ba - mẹ của Tản Đà - vì xung đột với gia đình đã bỏ nhà ra đi. Cho nên, danh dự của gia đình bị tổn thương khá trầm trọng. Thất vọng, Tản Đà từ bỏ mái ấm theo anh rể là nhà thơ trào phúng Nguyễn Thiện Kế, sống như người điên dại. Sau đó, nhà thơ bước ra chốn thị thành sáng tác văn học "bán phố phường" để mưu sinh:

"Chữ nghĩa Tây, Tàu trót dở dang,

Nôm na phá nghiệp kiểm ăn xoàng.

Nửa ngòi bút ngỗng ba sinh lụy Một mối tơ tằm mấy đoạn vương Có kẹo có câu là sách vở,

Chẳng lề, chẳng lối củng văn chương Còn non còn nước còn trăng gió,

Còn có thơ ca bán phố phường".

(Bài thơ đề từ tập thơ Khối tình con I)

Cái tôi "ngông" của Tản Đà bắt đầu từ đó. Hai câu thực là một minh chứng:

"Cung quế đã ai ngồi đó chửa'?

Cành đa xin chị nhắc lên chơi".

Theo thần thoại Trung Quốc, trên cung trăng có cây quế. Do đó, trăng còn được gọi là "cung quế”. Còn theo thần thoại Việt Nam, trên mặt trăng có cây đa, lại có thằng Cuội ngồi gốc cây đa. Tản Đà muốn làm thằng Cuội để được ở "cung quế", được ngồi dưới gốc cây đa, được ở bên cạnh chị Hằng Nga xinh đẹp tuyệt trần. Bởi vậy, thi sĩ cầu xin chị Hằng thả một cành đa xuống trần thế để "nhắc" mình "lên chơi" cho thỏa lòng mong ước. Có thể nói rằng, thái độ "muốn thoát ly khỏi thực tại" ỏ' hai câu thơ này là rất cao độ và rất rõ ràng.

Đến hai câu luận, chất "đa tình” và cái tôi "ngông” thế hiện theo trí tưởng tượng ly kỳ:

"Có bầu có bạn, can chi tủi Cùng gió cùng mây, thế mới vui".

Thi sì muốn làm người bạn tri âm tri kỷ với chị Hăng để vơi đi nỗi "tủi" mà cõi trần gieo rắc cho mình. Tản Đà đúng là một thi sĩ

"đa tình". Có lần nhìn vào bức ảnh của mình treo trên vách, Tản Đà tự trào một cách duyên dáng:

"Người đâu củng giống đa tình Tưởng là ai, lại là mình với ta".

Không yêu mỹ nhân trong cuộc đời thực, Tản Đà tìm đến những người đẹp đến "giật mình" như Hằng Nga, Ngu Cơ, Tây Thi, Dương Quý Phi, Chiêu Quân, ... Chỉ "cùng gió cùng mây" mới có thể "vui" với những con người sắc nước hương trời mới giải tỏa bầu tâm sự não nề được. Trong một vài truyện của Tản Đà, thi sĩ kế’ lại việc mình gạ cưới Hằng Nga bị Trời mắng. Trong Giấc mộng con II, Nguyễn Khắc Hiếu (Tản Đà) làm một chuyến du ngoạn đến Thiên đình. Lên đây thi sĩ không cưỡi rồng, cưỡi hạc đi dự tiệc Bàn đào, luyện thuốc trường sinh mà đi dự những bữa tiệc "hơn trăm người mà chi có một mình mình không phải là mỹ nhân", "uống rượu chỉ có ba người" là Nguyễn Khắc Hiếu cùng Dương Quý Phi, Tây Thi. "Theo mệnh lệnh" của Dương Quý Phi, nhà thơ làm bài hát "đọc cho một người Tần cung đứng chép". Chiêu Quân đánh tỳ bà, Dương Quý Phi say đứng dậy múa, Tây Thi hát. Sau những bữa tiệc như thế là những chuyến đi chơi " liên miền ở chốn Bồng Lai; có khi cùng các người ngồi thuyền quanh non câu cá chơi, cọ khi đi riêng với Tây Thi tới bên sông Ngân Hà." Có lần Nguyễn Khắc Hiếu đi chơi cùng chư tiên ỏ' chợ Giời, các tiên nữ chạm vào người thi sĩ thì đều cười ngất vì thi sĩ để "lộ trần cốt". Biết điều này, nhà thơ "thẹn quá" nhưng nghĩ thầm "được một cái cười của người tiên cũng là quý".

Nhưng ở hai câu kết, chất "ngông”, "đa tình" và "lãng mạn" tập trung cao độ hơn:

"Rồi cứ mỗi năm rằm tháng Tám Tựa nhau trông xuống thế gian cười".

Rằm tháng Tám là ngày Tết Trung thu. Ánh trăng dát vàng dát bạc trên nền trời cao xanh. Gió mát rượi. Nhiều loài hoa khoe sắc hương ngào ngạt. Từ những con người bình thường đến giới thượng lưu trí thức, văn nhân, thi sĩ đều yêu thích ngắm trăng. Đây là cơ hội để Tản Đà và Hằng Nga "tựa nhau trông xuống thế gian cười". Câu thơ có chút tự hào, hãnh diện của Tản Đà vì được tựa vai người đẹp - Hằng Nga cho mọi người ở trần gian chiêm ngưỡng. Câu kết này Tản

Đà không sử dụng phép đối nhưng ý tho' có sự tương phản giữa cái vô hạn (cung trăng - cõi mênh mông) với cái hữu hạn (thế gian - "cõi trần gian bé tí”) đế làm bật lên khát vọng "thoát ly" mãnh liệt của bản thân thi sĩ. Phải chăng từ trên cung trăng cao chất ngất, nhà thơ đang "cười" "cõi trần gian bé tí" đầy rẫy những bất công, ngang trái, mâu thuẫn, đặc biệt là mâu thuẫn giữa dân tộc ta với đế quốc Pháp, giữa nông dân với phong kiến càng lúc càng trỏ' nên sâu sắc, quyết liệt?

Tóm lại, bài thơ Muốn làm thằng Cuội tuy được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật nhưng lại "lãng mạn, phóng túng, nhuần nhị và rất có duyên". Tản Đà không dùng những từ ngữ đẽo gọt, cầu kỳ, sắc sảo mà mạnh dạn đưa những lời ăn tiếng nói hàng ngày vào thơ: "Buồn lắm chị Hằng ơi!"] "nhắc lên chơi"] "có bầu có bạn"] "cùng gió cùng mây"] "can chi tủi"] "thế mới vui". Những khẩu ngữ này làm cho bài thơ vừa tự nhiên, vừa "có duyên", giúp thi nhân trút cạn "lòng trần" của mình với người ỏ' "cõi tiên" xa lắc xa lơ. Bởi vậy, những người "chân lấm tay bùn" học thức còn hạn chế vẫn có thế hiểu được thơ Tản Đà.

Có thể nói rằng, với phong cách tuyệt vời đó, Tản Đà xứng đáng là "nhà thơ đàn anh chứng giám cho cuộc họp mặt Tao Đàn lớp sau... Có Tản Đà chúng ta mới thấy một mạch thơ từ thế kỷ 18 đến phong trào Thơ mới: chủ nghĩa cá nhân tư sản tìm được tiếng đồng vọng về cái lụy của tài, tình, tiếng kều của nhà nho tài tử trong đô thị phong kiến xưa".

 

Tản Đà là một nhà thơ lãng tử đồng thời cũng là nhà văn chuyên nghiệp của dòng văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900 - 1930. Tản Đà đã để lại cho những người mê say văn chương nhiều tác phẩm đặc sắc. Bài thơ Muốn làm thằng Cuội là một điển hình. Có một nhận xét về nội dung và nghệ thuật của bài thơ này như sau:

"Bài thơ "Muốn làm thằng Cuội" của Tản Đà thể hiện tâm trạng buồn chán trước thực tại tầm thường, muốn thoát ly khỏi thực tại ấy bằng một ước vọng rất "ngông" đồng thời cho chúng ta thấy một ngòi bút lãng mạn, phóng túng, nhuần nhị và rất có duyên".

Thật vậy, ngay từ hai câu đề, Tản Đà đã mang nỗi buồn của mình tâm sự với chị Hằng:

"Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!

Trần thế em nay chán nửa rồi".

Theo truyền thuyết dân gian Việt Nam, ở trên cung trăng có thằng Cuội và chị Hằng Nga. Đêm thu trăng thường sáng tỏ là cơ hội để Tản Đà gặp chị Hằng trong trí tưởng tượng bay bổng và lãng mạn của mình.

Nhưng tại sao Tản Đà lại buồn và chán cảnh trần thế?

Khi Tản Đà cất tiếng khóc chào đời năm 1889 thì giặc Pháp đã đặt ách thống trị lên đất nước Việt Nam khoảng 31 năm. Phải chăng' đó là nỗi buồn và chán đầu tiên của thi sĩ?

Mặt khác, Tản Đà sinh trưởng trong một gia đình dòng dõi khoa bảng thời Lê nhưng cuộc đời không hạnh phúc như các cậu ấm -

con -của các vị quan khác. Nhà thơ bị hỏng thi nhiều lần, mối tình đầu tan theo sương khói mong manh. Việc đau lòng hơn là bà Phủ Ba - mẹ của Tản Đà - vì xung đột với gia đình đã bỏ nhà ra đi. Cho nên, danh dự của gia đình bị tổn thương khá trầm trọng. Thất vọng, Tản Đà từ bỏ mái ấm theo anh rể là nhà thơ trào phúng Nguyễn Thiện Kế, sống như người điên dại. Sau đó, nhà thơ bước ra chốn thị thành sáng tác văn học "bán phố phường" để mưu sinh:

"Chữ nghĩa Tây, Tàu trót dở dang,

Nôm na phá nghiệp kiểm ăn xoàng.

Nửa ngòi bút ngỗng ba sinh lụy Một mối tơ tằm mấy đoạn vương Có kẹo có câu là sách vở,

Chẳng lề, chẳng lối củng văn chương Còn non còn nước còn trăng gió,

Còn có thơ ca bán phố phường".

(Bài thơ đề từ tập thơ Khối tình con I)

Cái tôi "ngông" của Tản Đà bắt đầu từ đó. Hai câu thực là một minh chứng:

"Cung quế đã ai ngồi đó chửa'?

Cành đa xin chị nhắc lên chơi".

Theo thần thoại Trung Quốc, trên cung trăng có cây quế. Do đó, trăng còn được gọi là "cung quế”. Còn theo thần thoại Việt Nam, trên mặt trăng có cây đa, lại có thằng Cuội ngồi gốc cây đa. Tản Đà muốn làm thằng Cuội để được ở "cung quế", được ngồi dưới gốc cây đa, được ở bên cạnh chị Hằng Nga xinh đẹp tuyệt trần. Bởi vậy, thi sĩ cầu xin chị Hằng thả một cành đa xuống trần thế để "nhắc" mình "lên chơi" cho thỏa lòng mong ước. Có thể nói rằng, thái độ "muốn thoát ly khỏi thực tại" ỏ' hai câu thơ này là rất cao độ và rất rõ ràng.

Đến hai câu luận, chất "đa tình” và cái tôi "ngông” thế hiện theo trí tưởng tượng ly kỳ:

"Có bầu có bạn, can chi tủi Cùng gió cùng mây, thế mới vui".

Thi sì muốn làm người bạn tri âm tri kỷ với chị Hăng để vơi đi nỗi "tủi" mà cõi trần gieo rắc cho mình. Tản Đà đúng là một thi sĩ

"đa tình". Có lần nhìn vào bức ảnh của mình treo trên vách, Tản Đà tự trào một cách duyên dáng:

"Người đâu củng giống đa tình Tưởng là ai, lại là mình với ta".

Không yêu mỹ nhân trong cuộc đời thực, Tản Đà tìm đến những người đẹp đến "giật mình" như Hằng Nga, Ngu Cơ, Tây Thi, Dương Quý Phi, Chiêu Quân, ... Chỉ "cùng gió cùng mây" mới có thể "vui" với những con người sắc nước hương trời mới giải tỏa bầu tâm sự não nề được. Trong một vài truyện của Tản Đà, thi sĩ kế’ lại việc mình gạ cưới Hằng Nga bị Trời mắng. Trong Giấc mộng con II, Nguyễn Khắc Hiếu (Tản Đà) làm một chuyến du ngoạn đến Thiên đình. Lên đây thi sĩ không cưỡi rồng, cưỡi hạc đi dự tiệc Bàn đào, luyện thuốc trường sinh mà đi dự những bữa tiệc "hơn trăm người mà chi có một mình mình không phải là mỹ nhân", "uống rượu chỉ có ba người" là Nguyễn Khắc Hiếu cùng Dương Quý Phi, Tây Thi. "Theo mệnh lệnh" của Dương Quý Phi, nhà thơ làm bài hát "đọc cho một người Tần cung đứng chép". Chiêu Quân đánh tỳ bà, Dương Quý Phi say đứng dậy múa, Tây Thi hát. Sau những bữa tiệc như thế là những chuyến đi chơi " liên miền ở chốn Bồng Lai; có khi cùng các người ngồi thuyền quanh non câu cá chơi, cọ khi đi riêng với Tây Thi tới bên sông Ngân Hà." Có lần Nguyễn Khắc Hiếu đi chơi cùng chư tiên ỏ' chợ Giời, các tiên nữ chạm vào người thi sĩ thì đều cười ngất vì thi sĩ để "lộ trần cốt". Biết điều này, nhà thơ "thẹn quá" nhưng nghĩ thầm "được một cái cười của người tiên cũng là quý".

Nhưng ở hai câu kết, chất "ngông”, "đa tình" và "lãng mạn" tập trung cao độ hơn:

"Rồi cứ mỗi năm rằm tháng Tám Tựa nhau trông xuống thế gian cười".

Rằm tháng Tám là ngày Tết Trung thu. Ánh trăng dát vàng dát bạc trên nền trời cao xanh. Gió mát rượi. Nhiều loài hoa khoe sắc hương ngào ngạt. Từ những con người bình thường đến giới thượng lưu trí thức, văn nhân, thi sĩ đều yêu thích ngắm trăng. Đây là cơ hội để Tản Đà và Hằng Nga "tựa nhau trông xuống thế gian cười". Câu thơ có chút tự hào, hãnh diện của Tản Đà vì được tựa vai người đẹp - Hằng Nga cho mọi người ở trần gian chiêm ngưỡng. Câu kết này Tản

Đà không sử dụng phép đối nhưng ý tho' có sự tương phản giữa cái vô hạn (cung trăng - cõi mênh mông) với cái hữu hạn (thế gian - "cõi trần gian bé tí”) đế làm bật lên khát vọng "thoát ly" mãnh liệt của bản thân thi sĩ. Phải chăng từ trên cung trăng cao chất ngất, nhà thơ đang "cười" "cõi trần gian bé tí" đầy rẫy những bất công, ngang trái, mâu thuẫn, đặc biệt là mâu thuẫn giữa dân tộc ta với đế quốc Pháp, giữa nông dân với phong kiến càng lúc càng trỏ' nên sâu sắc, quyết liệt?

Tóm lại, bài thơ Muốn làm thằng Cuội tuy được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật nhưng lại "lãng mạn, phóng túng, nhuần nhị và rất có duyên". Tản Đà không dùng những từ ngữ đẽo gọt, cầu kỳ, sắc sảo mà mạnh dạn đưa những lời ăn tiếng nói hàng ngày vào thơ: "Buồn lắm chị Hằng ơi!"] "nhắc lên chơi"] "có bầu có bạn"] "cùng gió cùng mây"] "can chi tủi"] "thế mới vui". Những khẩu ngữ này làm cho bài thơ vừa tự nhiên, vừa "có duyên", giúp thi nhân trút cạn "lòng trần" của mình với người ỏ' "cõi tiên" xa lắc xa lơ. Bởi vậy, những người "chân lấm tay bùn" học thức còn hạn chế vẫn có thế hiểu được thơ Tản Đà.

Có thể nói rằng, với phong cách tuyệt vời đó, Tản Đà xứng đáng là "nhà thơ đàn anh chứng giám cho cuộc họp mặt Tao Đàn lớp sau... Có Tản Đà chúng ta mới thấy một mạch thơ từ thế kỷ 18 đến phong trào Thơ mới: chủ nghĩa cá nhân tư sản tìm được tiếng đồng vọng về cái lụy của tài, tình, tiếng kều của nhà nho tài tử trong đô thị phong kiến xưa".