LÀM VĂN
Thông tin doanh nghiệp
NEWS  |  TAGS

399B Trường Chinh, phường 14, quận Tân Bình, TP.HCM

  • Phân tích
  • Mẫu văn phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử xúc tích

Mẫu văn phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử xúc tích

Hàn Mặc Tử - Một trái tim, một tâm hồn lãng mạn chan chứa tình yêu đã thổi bùng lên tiếng thơ, tiếng khóc của nghệ thuật trước cuộc đời. Những lúc đau đớn và hạnh phúc cũng là những lúc tác giả thả hồn mình vào thơ ca

BÀI LÀM

... những phút giây ông đã chắt lọc, đã thăng hoa từ nỗi đau của tâm hồn mình để viết lên những bài thơ tuyệt bút. Và bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ đã được ra đời ngay trong những phút giây tuyệt diệu ấy. ở bài thơ, cái tình mặn nồng trong sáng đã hòa quyện với thiên nhiên tươi đẹp, mối tình riêng đã ở trong môi tình chung mà hồn thơ vẫn đượm vẻ buồn đau.

Dây thôn Vĩ Dạ là một trong những bài thơ tình hay nhất của Hàn Mặc Tử. Một tình yêu thiết tha man mác, đượm vẻ u buồn ẩn hiện giữa khung cảnh thiên nhiên hòa với lòng người, cái thực và mộng, huyền ảo và cụ thể hòa vào nhau. Mở đầu bài thơ là một lời trách móc nhẹ nhàng của nhân vật trữ tình.

Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

Chi một câu hỏi thôi! Một câu hỏi của cô gái thôn Vĩ nhưng chan chứa bao yêu thương mong đợi. Câu thơ vừa có ý trách móc vừa có ý tiếc nuôi của cô gái với người yêu vì đã bỏ qua không được chiêm ngưỡng vó đẹp mận mà, ấm áp tình quê của thôn Vĩ vùng nông thôn ngoại ô xinh xắn thơ mộng, một phương diện của cảnh Huế.

Chúng ta chú ý hãy quan sát, tận hường vẻ đẹp của thôn Vĩ:

Nhìn nắng hàng cau nấng mới lên Vườn ai mướt quá xanh như ngọc Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Nét đặc sắc của thôn Vĩ quê hương người con gái gợi mỞ Ở câu đầu đến đây đã được tả rõ nét. Một bức tranh tưới lên trên ngọn cau tươi đẹp, tràn đầy sức sống. Nắng mới là nắng sớm bắt đầu của một ngày, những hàng cau cao vút vươn mình đón lây những tia nắng sớm kia, và tất cả tràn ngập ánh nắng vàng buổi bình minh. Cái “nắng hàng cau

nắng mới lên” sao lại gợi nỗi niềm làng mạc quê hương đến thế. Bất chợt ta nghĩ tới những câu thơ của Tố Hữu trong bài Xuân lòng:

Nắng xuân tươi trên thân dừa xanh dịu Tàu cau non lấp loáng muôn gươm xanh Ánh nhởn nhơ đùa quả non trắng phếu Và cháy tan qua kẽ lá cành chanh.

Nắng mới cũng còn có ý nghĩa là nắng của mùa xuân, mở đẩu cho một năm mới nên bao giờ cũng bừng rực rỡ nồng nàn. Đó là những tia nắng đầu tiên chiếu rọi xuống làng quê mà trước hốt nó chiếu vào những vườn cau làm cho những hạt sương đêm đọng lại sáng lên, lấp lánh như những viên ngọc được đính vào chiếc áo choàng nhung xanh mịn:

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Cái nhìn như chạm khẽ vào sắc màu của sự vật đê rồi bật lên một sự ngạc nhiên đến thẩn thờ. Đến câu thơ này, ta bắt gặp cái nhìn của thi nhân đã hạ xuống thấp hơn và bao quát ỏ chiều rộng. Một khoảng xanh của vườn tược hiện ra, nhắm mắt vào ta cũng hình dung ra ngay cái màu xanh của vỏ đẹp mà nó càng tràn trề sự sống mơn mởn. Những tàn lá cành cây được sương đêm gột rửa trở thành cành vàng lá ngọc. Không phải xanh mượt, cũng không phải xanh mỡ màng mà chỉ có “xanh như ngọc” mới diên tả được vẻ đẹp ngồn ngộn, sự sống của vườn tược. Một màu xanh cao quí, không một chút gợn, một màu xanh tỏa ánh tạo nên vẻ đẹp óng ánh, lấp lánh, trong trẻo làm cho vườn cây càng sáng bóng lên. Hình như cả vườn cây đều tắm trong luồng không khí đang còn run rẩy sự trinh bạch nguyên sơ chưa hề nhuốm bụi. Lăng kính không khí ấy làm hiện rõ hơn đường nét màu sắc của cảnh sắc mà mắt thường chúng ta bỏ qua. Nếu không có một tình yêu sâu nặng nồng nàn đôi với Vĩ Dạ thì Hàn Mặc Tử không thể có được những vần thơ trong trẻo như vậy. Ai đã từng sinh ra và lớn lên Việt Nam, đặc biệt ở xứ Huế thì mới thấm thìa những vần thơ này:

Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Trong vườn thôn Vĩ Dạ kia, nhành lá trúc và khuôn mặt chữ điền sao lại có mối liên quan bất ngờ mà đẹp thế: những chiếc lá trúc thanh mảnh, thon thả che ngang mặt chữ điền. “Mặt chữ điền” khuôn mặt ấy chỉ hiện ra thấp thoáng sau lá trúc mơ màng, hư hư thực thực.

Thôn Vĩ Dạ nằm ngay cạnh bờ sông Dương êm đềm. Vì thế mà từ cách tả cảnh làng quê ở khố thơ đầu đã hé mở tình yêu tác giả chuyển sang tả cảnh sông, với niềm bâng khuâng, nỗi nhỞ mong, sầu muộn hư ảo như trong giấc mộng.

Gió theo lối gió mây đường mây Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay Thuyền ai đậu bến sông trăng đó Có chở trăng về kịp tối nay?

Gió và mảy đã gợi buồn vì nó trôi nối, lang thang thì nay lại càng buồn hơn: gió đi theo đường của gió, mây đi theo đường của mây, gió và mây xa nhau, không thể là bạn đồng hành, không thế gặp gỡ và sự xa cách của

nhà thơ với người yêu có thể là vĩnh viễn. Phải chăng đây là cảm quan của nhà thơ trong xa cách nhỞ thương, và đây cũng là mặc cảm của những con người xưa trong cuộc sống. Nỗi buồn về sự chia li, giã biệt đọng lại trong lòng người phảng phất buồn và mang một nỗi niềm xao xác. Chúng ta không còn thấy giọng thơ tươi mát đầy sức sông như ở đoạn trước nữa, chúng ta gặp lại Hàn Mặc Tử một tâm hồn đau buồn, u uất:

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay.

Dòng sông Hương hiện ra mới buồn làm sao với những bông hoa bắp màu xám tẻ nhặt, ảm đạm như màu khói. VỚI một tâm hồn mãnh liệt như Hàn Mặc Tử thì dòng sông trôi lững lờ của xứ Huế chỉ là “dòng nước buồn thiu” gợi cảm giác buồn lặng, quạnh quẽ. Hoa bắp cũng lay nhè nhẹ trong một nỗi buồn xa vắng. Sự thay đổi tâm trạng chính là thái độ của những con người sông trong vòng đời tôi tăm, bê tắc. Mặt nước sông Hương êm quá gợi đến những bến bờ xa vắng, những mảnh bèo trôi dạt lênh đênh của số kiếp con người. Tâm trạng thoắt vui thoắt buồn mà buồn thì nhiều hơn, ta đã gặp rất nhiều Ở các nhà thơ lãng mạn khác sống cùng thời với Hàn Mặc Tử. Ý thơ thật buồn, được nối tiếp trong hai câu sau nhưng với cách diên đạt thật tuyệt diệu thực đấy mà mộng đấy: Thuyền ai dậu bển sông trăng dó Có chở trăng về kịp tối nay?

Tất cả như tan loãng trong vầng trăng thân thuộc của Hàn Mặc Tử. Cảnh vật thiên nhiên tràn ngập ánh trăng, một ánh vàng sáng loáng chiếu xuống dòng sông, làm cả dòng sông và những bãi bồi lung linh, huyền ảo. Cảnh nôn thơ quá, thơ mộng quá! Và cũng đa tình quá! “Dòng nước buồn thiu” đã hóa thành dòng sông trăng lung linh con thuyền khách đã hóa thành thuyền trăng. Tác giả đã gửi gắm một tình yêu khát khao, nỗi ngóng trông, mong nhỞ vào con thuyền trăng, vào cả dòng sông trăng. Thơ lồng trong ngôn ngữ thơ thật tài hoa, thật là thơ đẹp với xứ Huê mộng mơ. Tác giả đã lược bút, viết nên những câu thơ nhẹ nhàng, sâu kín nhưng hàm chứa cả tình yêu bao la, nồng cháy đến vô cùng. Vầng trăng trong hai câu thơ này là vầng trăng nguyên vẹn của thi nhân trước mảnh tình quê chưa bị phôi pha. Hàn Mặc Tử rất yêu trăng nhưng vầng trăng ở các bài thơ khác không giông thế này. Một ánh trăng gắt gao, kỳ quái, một ánh trăng khêu gợi, lả lơi:

Gio rít tầng cao trăng ngã ngửa Vỡ tan thành vũng dọng vàng khô.

Hay:

Trăng nằm sóng soài trên cành liễu Dại gio dông về đề lả lơi.

Trăng trở thành một khí quyển bao quanh mọi cảm giác, mọi suy nghĩ của Hàn Mặc Tử, hơn nữa nó còn lẫn vào thân xác ông. Nó là ông, là trời đất, là người ta. Trăng biến hóa vô lường trong thơ ông, khi hữu thế

khi vô tình, khi mê hoặc khi kinh hoàng.

Trở lại với dòng sông trăng trong Đây thôn Vĩ Dạ. Ở đây sông là sông trăng nhưng thi nhân lại xót xa hỏi:

Thuyền ai dậu bến sông trăng dó Có chở trăng về kịp tối này'?

Vầng trăng dây phải chăng là vầng trăng hạnh phúc và con thuyền không kịp chở trăng về cho người trên bến đợi? Câu hỏi biểu lộ niềm lo lắng của một số phận không có tương lai. Hàn Mặc Tứ hiểu căn bệnh của mình nên ông mặc cảm về thời gian cuộc đời ngắn ngủi, vầng trăng không kịp về và Hàn Mặc Tử cũng không đợi được vầng trăng hạnh phúc đó nữa, một năm sau ông vĩnh biệt cuộc đời.

Nhưng hiện tại, con người còn đang sông và đang tiếp tục giấc mơ:

Mơ khách dường xa khách dường xa Ao em trắng quá nhìn không ra ở  đây sương khói mờ nhân ảnh Ai biết tình ai có dậm dà?

Trái tim khát khao yêu thương, nhưng nỗi đau kỷ niệm tình yêu ấy, ông đã gửi tất cả vào những trang thơ. Và rồi tất cả như trôi trong những giấc mơ của ước ao, hy vọng. Màu áo trắng cũng là màu ánh nắng của Vĩ Dạ mà nhìn vào đó tác giả choáng ngợp, thây ngây ngất trước sự trong trắng, thanh khiết, cao quí của người yêu.

Hình như giữa những giai nhân áo trắng ấy với thi nhân có một khoảng cách nào đó khiên thi nhân không khỏi không nghi ngờ: ở  đây sương khói mờ nhân ảnh Ai biết tình ai có dậm dà?

Câu thơ đã tả thực cảnh Huế kinh thành sương khói. Trong màn sương khói đó con người như nhòa đi và có thể tình người cũng nhòa đi? Nhà thơ không tả cảnh mà tả tâm trạng mình, biết bao tình cảm trong những câu thơ ây. Những cô gái Huê kín đáo quá, ẩn hiện trong sương khói, trở nên xa vời quá, liệu khi họ yêu, họ có đậm đà chăng? Tác giả đâu dám khẳng định về tình cảm người con gái Huế, ông chi hỏi:

Ai biết tình ai có dậm dà?

Lời thơ như nhắc nhở, không phải bộc lộ một sự tuyệt vọng hay hy vọng, đó chi là sự thất vọng. Sự thất vọng của một trái tim khao khát yêu thương mà không bao giờ và mãi mãi không có tình yêu trọn vẹn. Bài thơ càng hay càng ngậm ngùi, nó đã khép lại nhưng lòng người vần thôn thức. Cả bài thơ được liên kết bởi từ “ai”, mỞ đầu: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”, tiếp đến: “Thuyền ai đậu bến sông trăng dó” và kết thúc: “Ai biết tình ai có dậm dà? ” càng làm cho Đây thôn Vĩ Dạ sương khói hơn, huyền bí hơn.

Dây thôn Vĩ Dạ là một bức tranh đẹp vồ cảnh và người của miền quê đất nước qua tâm hồn thơ mộng, giàu tưởng tượng và đầy yêu thương của nhà thơ với nghẹ thuật gợi liên tưởng, hòa quyện thiên nhiên với lòng người.

Trải qua bao năm tháng, cái tình Hàn Mặc Tử vẫn còn tươi nguyên nóng hổi, lay động day dứt lòng người đọc. Tình yêu trong ước mơ của con người đau thương ấy có sức bay bổng lạ kỳ nhưng nó giản dị, trong sáng, tươi đẹp như làng quê Vĩ Dạ. Xin thành kính thắp một nén nhang trước một nghệ sĩ tài hoa, một trái tim suốt cuộc đời thổn thức, vì tình yêu, một tâm hồn thi sĩ đã thăng hoa nỗi đau thương, bất hạnh của đời mình thành những đóa hoa thơ mà trong đó thơm ngát nhất, thanh khiết nhất là Đây thôn Vĩ Dạ.