399B Trường Chinh, phường 14, quận Tân Bình, TP.HCM
BÀI LÀM
Chữ người tử tù là một truyện ngắn đẹp và hay hơn cả trong tập truyện Vang bóng một thời '1940) được Nguyễn Tuân viết trước Cách mạng tháng Tám. Đoạn cuối truyện tả nhân vật Huấn Cao cho chữ trong buồng giam là giai đoạn giàu giá trị tư tưởng và nghệ thuật.
Truyện Chữ người tử tù kể về một người chống đôi triều đình - người tử tù Huấn Cao đang bị giam trong ngục - chờ ngày đi nhận án chết. Viên quản ngục biết đó là người tài, đặc biệt viết chữ vuông vức, rất đẹp nôn đã ngầm trọng đãi để cố xin lấy vài chữ. Hiếu tâm lòng trọng tài của quản ngục, Huấn Cao đã thuận cho mấy chữ cuối cùng.
Tư tưởng ca ngợi, tôn vinh cái đẹp trong cảnh đen tôi, tội lỗi ấy, nếu không gặp ngòi bút uyên bác, tài hoa của Nguyễn Tuân thì cũng khó bộc lộ một cách sinh động và thuyết phục. Chỉ riêng đoạn “cho chữ”, nhà văn ham săn tìm cái đẹp Nguyễn Tuân đã tạo thành một đoạn kết truyện đầy xúc động, trang trọng, cồ kính, hấp dẫn. Trước hết, người viết truyện đà dựng một màn kịch với sự đối lập, tương phản gay gắt. Buồng giam chật chội, hôi hám đầy phân chuột, phân gián đối lập với cảnh cho chữ tài hoa, đẹp đẽ. Ánh đỏ ngọn đuốc, màu trắng tinh của lụa bạch át đi cái tăm tối của phòng giam ban đêm. Mùi thơm của chậu mực bốc lên át đi mùi hôi phân chuột, phân gián. Người tù đĩnh đạc, đàng hoàng với cây bút trong tay đôi lập và át đi, vượt lên gông xiềng nặng nề kìm kẹp. Cái cao cả
tương phản với cái thấp hòn và chiến thắng tù ngục trói buộc. Cái đẹp tỏa sáng, chiến thắng cái xâu, cái ác. Một màn kịch thật hay, giàu ý nghĩa!
Hơn nữa, Nguyễn Tuân còn khắc họa kết truyện với những chi tiết, hình tượng sinh động, đầy ấn tượng tạo không khí, khung cảnh cần thiết cho việc cho chữ. Người đọc thấy biểu hiện ra âm vang, hình bóng một thời xa xưa. Tiếng mõ vắng lại, bó đuốc cháy sáng rực, phiến lụa trắng óng ả được đánh dấu bằng những đồng tiền kẽm... Trong “vang bóng” ấy lồng lộng hình tượng Huấn Cao cố deo gông, chân vướng xiềng đang hoa tay thảo những nét chữ đẹp. Hình tượng quản ngục trân trọng, cảm động chắp tay vái người tù và tuôn nước mắt để “lời vàng vâng lĩnh ý cao” thật xúc động. Nhà vãn phải am hiểu tinh tường mới có thể miêu tả như vậy. Ngôn ngữ nghệ thuật ở đây thật chắt lọc, chuẩn xác và tinh tế tạo hồn cho cả đoạn văn. Những từ Hán - Việt dùng thật đắc, thích hợp với việc nói chuyện cũ, góp phần làm sông lại một thời vang bóng. Đó là những từ như lạc khoản, thiên lương, bái lĩnh... Đồng thời Nguyễn Tuân còn có cách viết, đặt câu vừa tạo hình vừa gợi cảm rất riêng. Thí dụ lời khuyên của Huấn Cao với quản ngục: “ở dây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cả đời lương thiện...”. Kết hợp “lành” với “vững” tạo thành từ mới lạ “lành vững” thật độc đáo.
Những giá trị nghệ thuật vừa nêu trên đã làm sáng rõ giá trị tư tưởng của doạn văn. Thứ nhất là sự trân trọng, ca ngợi cái đẹp. Cái đẹp của nét chữ vuông vức, tươi tắn. Cái đẹp của người cho chữ với chí lớn, khí mạnh, tài hoa và lòng sáng. Cái đẹp còn ở nơi những người như ngục quan, thầy thơ lại biết quý trọng, tôn sùng cái đẹp. Thứ hai, đoạn kết thúc truyện còn toát lên tinh thần yêu nước của tác giả. Qua hình tượng đẹp của người tử tù cao cả, hiên ngang đầy sức hấp dẫn và lời khuyên hướng thiện, ta thấy thái độ và tấm lòng Nguyễn Tuân đôi với cuộc sống, với nước nhà. Có thể nói nhân vật Huấn Cao ít nhiều mang hình bóng của Cao Bá Quát ngẩng đầu trước cường quyền và “cúi đầu trước hoa mai”. Đồng thời Huấn Cao còn “vang bóng” trong cuộc đời nhem nhuốc, tù hãm lúc bây giờ, một con người khí khái, ngang tàng và yêu xứ sở.
Cảnh cho chữ đúng là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. Nguyễn Tuân đúng là nhà văn tài hoa làm sang trọng cho vàn chương, đốt cháy lên ngọn đuôc của cái đẹp. Nói rằng cảnh cho chữ là “Cảnh tượng xưa nay chưa từng có” vì cô kim làm gì có chuyện người cho chư đẹp trong tù khi bán án tử hình đã kề sát cố. Cũng chưa hề có việc người tử tù lại khuyên bảo người quản ngục, người tử tù lại đĩnh đạc cao giọng nói đến những chữ “thiên lương”, “lương thiện” để mỞ cho kẻ coi ngục hướng đi, cách sống. Độc đáo hơn nừa là viên quản ngục trong thời phong kiến tàn lụi, thôi nát lại biết trọng cái đẹp, cái cao cả và cúi đầu xin làm theo điều tốt đẹp.