LÀM VĂN
Thông tin doanh nghiệp
NEWS  |  TAGS

399B Trường Chinh, phường 14, quận Tân Bình, TP.HCM

  • Phân tích
  • Phân tích đoạn trích Cha con nghĩa nặng của Hồ Biểu Chánh

Phân tích đoạn trích Cha con nghĩa nặng của Hồ Biểu Chánh

Đề: Phân tích đoạn trích Cha con nghĩa nặng của Hồ Biểu Chánh. 'Cha con nghĩa nặng là một câu chuyện đầy kịch tính mà người ta có thể dê dàng chuyển thể thành một tác phẩm sân khấu...'

BÀI LÀM

Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm..., chẳng biết câu thơ của nhà văn Nam bộ Nguyễn Đình Chiểu có ảnh hưởng trực tiếp tới quan điểm sáng tác của HỒ Biểu Chánh hay không? Nhưng xét về một mật nào đó, có thế nói con thuyền vàn chương của nhà thơ trung đại và nhà văn hiện đại này đều mang nặng một thứ hàng vốn vô tận và vô giá: đạo lí. Tôi muốn nói cảm hứng bao trùm lên sự nghiệp thơ văn của hai tác giả này là cảm hứng đạo lí. Bốn năm trước khi Đồ Chiểu mất, Hồ Biểu Chánh đã ra đời. Phải chăng con đường văn chương đạo lí của nhà văn họ HỒ chính là một

sự kê tục nào đó của tinh thần đạo lí của bậc tiền bối kia? Với một sự nghiệp văn chương đồ sộ - 60 cuốn tiểu thuyết, Hồ Biêu Chánh xứng đáng là một tiểu thuyết gia đã góp phần xây dựng nên từ buổi sơ khai của thế kỉ XX cái nền móng vững chắc cho tiểu thuyết hiện đại Việt Nam. Một thế kỉ đã đi qua, trong văn chương Hồ Biểu Chánh, dĩ nhiên có những phần, những khía cạnh không chịu được thử thách của thời gian. Song, có những giá trị đã vượt qua tình trạng sơ khai vẫn có thổ cảm động người đọc cuối thế kỉ này và hẳn nó chưa chịu dừng lại ở đấy bởi vì đạo lí làm người một khi đã thành tâm huyết lớn của cả một đời văn, đã hóa thân thành những hình tượng có sức sống lớn thì nó sẽ đem lại cho văn chương khả năng trường tồn. ở một phạm vi hẹp hơn, chừng nào văn còn có khả năng cảm động lòng người, chừng ấy nó không cũ. Đọc đoạn trích của Cha con nghĩa nặng, người đọc đã có được ở đây một sự cảm động như thế.

Đúng là văn xuôi đã tự làm giàu cho mình bằng vay mượn, tận dụng, kê thừa Ưu thế của các thể loại khác, cho nên chúng ta thấy có loại văn xuôi giàu chất thơ, có loại đậm chất sử thi, có loại đầy kịch tính, có loại lại khoác thêm lí luận, triết học nữa... Đọc những tác phẩm như thế, người đọc có thể làm giàu cho thị hiếu của chính mình.

Cha con nghĩa nặng là một câu chuyện đầy kịch tính mà người ta có thể dê dàng chuyển thể thành một tác phẩm sân khấu. Toàn bộ câu chuyện là một chuỗi kế tiếp những sự kiện có tính chất xung đột, mâu thuẫn. Gia đình Trần Văn Sửu đang êm đềm bỗng nhiên tan nát. Đầu mối là việc ngoại tình của cô vợ lăng loàn, đàng điếm. Chồng phản ứng thì vợ không biết điều, lại còn thái độ hỗn hào, láo xược. Tức quá không kiềm chế được, Sử đã xô vợ. Thật không may, vợ ngã và chết. Vô tình, Sửu thành kẻ giết vợ. Sửu bỗng nhiên thành kẻ phạm pháp và vô đạo lí. Pháp lí thì có thể trốn khỏi sự truy nã, nhưng đạo lí thì không trôn khỏi tình phụ tử. Muôn được yên thân anh phải sống lẫn tránh. Nhưng muốn sống đúng đạo lí của người làm cha, anh phải trở về. Lẩn trốn cá đời thì lỗi đạo cha. Còn trở về thì có thể đầy nguy hiểm đến tính mệnh. Ay là mâu thuẫn giằng xé trong anh ở phần trước, còn đến  đây thì đã qua. Anh trở về, nghĩa là phụ tử đã chiến thắng ý thức bảo mạng. Tình phụ tử đã khiến anh mạo hiểm trở về. Như vậy, cuộc đấu tranh bên trong anh là sự giằng xé quyết liệt giữa đạo lí và phản đạo lí, giữa nhân đạo và phi nhân đạo! Mỗi lần anh vượt lên được những tiếng nói ngáng trở, là một lần đạo lí chiến thắng.

Nhưng giờ đây, anh đang đối mặt với tình huống gay go mới, đang bước vào một mâu thuẫn xung đột mới.

Mấy năm nay Sửu đi biệt tích. Cả xóm và gia đình đều yên chí rằng Sửu đã chết. Trong thời gian đó, hai đứa con của Sửu được sự chăm sóc của ông ngoại, đã lớn lên và khá giả hơn. Hiện thời, đứa con gái sắp lấy chồng, đứa con trai cũng mai mối để cưới vợ. Nếu Sửu xuất hiện, mọi chuyện vỡ lỡ chắc đổ bể hết.

Đoạn trích nếu được ví như một màn kịch, thì màn kịch được dàn

thành hai lớp kịch chính, vừa kế tiếp vừa có phần chồng chéo lên nhau: cảnh Trần Văn Sửu gặp bố vợ và Hương thị Tào và cảnh Trần Văn Sửu gặp con trai là thằng Tí. Mỗi cảnh là một mâu thuẫn nhỏ, cả hai cảnh nằm trong một xung đột lớn. Ở đâu cũng thấy toát lên cái đạo lí làm người, phụ tử tình thâm Cha con nghĩa nặng.

Phải nói ngay rằng xung đột kịch ở đây là thuộc về hoàn cảnh chứ không phải về tính cách. Các nhân vật tham gia vào màn kịch này đều là những con người của đạo lí: một người chí nghĩa, người cha chí tình và một đứa con chí hiếu. Họ đấu tranh VỚI nhau không phải chiến đấu với những tương phản trong tính cách cá nhân, mà xét đến cùng thì cá nhân ấy đang đâu tranh với sự nghiệt ngã của hoàn cảnh, của tình huông.

Trong quan hộ với Trần Văn Sửu, Hương thị Tào là bố vợ. Dù rằng con rể đã vô tình giết chết con gái của mình, nhưng ông bô không phải là kẻ rối trí họp tâm khiến thù hận Trần Văn Sửu. Ông vẫn dành cho Sửu sự cảm thông, thương xót. Có lúc lòng ông có gợn lên thoáng hận nào đó, ấy là khi ông mắng chửi một câu: “Mầy thiệt là khốn nạn lắm!”. Nghĩ cho cùng đó là cái phản ứng dễ có ở một người cha bị mất con gái. Song, nó cũng chỉ thoáng qua. Chi tiết ấy cho thấy Hồ Biểu Chánh hiểu lòng người chứ không chạv theo nhu cầu lí tưởng hóa một chiều để hoàn toàn đơn giản hóa tình cảm vốn phức tạp của con người. Tràn ngập lòng Hương thị Tào vẫn là sự cảm thông. Ông đã sẵn sàng tha thứ, và tha thứ tự lúc nào rồi: “Thôi, chuyện cũ bỏ di!”. Và trước tấm tình đau đớn của con rể, ông đã không cầm lòng được: “Hương thị Tào nghe mấy lời thảm thiết ấy thì dộng lòng quá, chịu không nổi, nén ông củng khóc". Tình huống đặt ra với Hương thị Tào thì có nôn hay không nên đáp ứng nguyện vọng tha thiết của con rể - muôn gặp lại hai con của mình trong chốc lát. Có lẽ không phải là xung đột giữa một bên là sở nguyện của con rể, một bôn là hạnh phúc của hai cháu ngoại mà thực ra là xung đột giữa tình thương lớntình thương nhỏ. Sự giằng xé của những tình cảm ấy khiến ông đau khổ. Ông đuổi Sửu đi không phải vì ghét bỏ Sửu mà vì thương, vì sợ Sửu xuất đầu lộ diộn sẽ nguy hiểm tới tính mạng và làm hỏng việc đại sự trăm năm của con Sửu. Cuối cùng tình thương lớn đã thắng. Cái việc đuổi Sửu đi ngay có vẻ như tàn nhẫn nhưng không phải. Nói đúng hơn là tàn nhẫn bề ngoài, vì cực chẳng đã, cồn bên trong là tình cám sâu sắc gắn VỚI một tầm nhìn xa của một người cha. Ong giục Sửu đi sau khi đã nói rò điều hơn lẽ thiệt cho con rể. Và đến đây xung đột của canh thứ nhất đã được giải tỏa. Sửu đã nén đau khố để ra đi. Nhưng trong lòng anh đang dâng lên niềm hạnh phúc. Sửu ra đi không gặp lại con chính là chấp nhận hi sinh: hi sinh hạnh phúc nhỏ của mình (gặp các con) vì hạnh phuc lớn của con cái (để chúng được yôn ổn với những cuộc hôn nhân đang hứa hẹn). Cảnh thứ nhất khép lại với hành vi đầy cảm kích của Sửu trước sự cảm thông và lòng độ lượng cua nhạc phụ: “Trần Văn Sửu chấp tay xá cha rồi dội nón lên và bươn bả ra lộ”.

Nêu dừng lại ở đó không thôi thì Cha con nghĩa nặng mới chỉ hiện ra một phía, ấy là cha vợcon rề. Đấy chưa phải là phần trọng tâm của tình phụ tử mà Cha con nghĩa nặng muôn nói đôn. Sau khi Trần Văn Sửu vừa đi khỏi, thằng Tí ở trong nhà dò cửa chui ra. Điều này, càng thấy rõ tính chất chuyển cảnh của sân khấu. Và cảnh thứ hai mở ra.

Trước, Trần Văn Sửu chỉ muôn sông đê gặp các con, giờ anh ta chỉ muôn chết để cho chúng được bình yên. Nếu như ở cảnh trước chỉ nghiêng về đôi thoại, thì đến đây sân khấu mở rộng hơn, hành động của nhân vật phong phú hơn. Thằng Tí cố đuối theo để gặp cha; cha nó lại ngỡ là người làng đuôi bắt, nên con chạy càng gấp cha chạy càng nhanh: tình tiết cười ra nước mắt.

Có lẽ ai cũng thây điều này: tình cảm của các nhân vật ở đây thật phân minh Bố vợ đã không vì mất con gái mà oán thù con rể, con không vì cha làm mẹ chết mà oán hận cha. Rồi đến chồng không vì người vợ lăng loàn mà khiến con cái phải khinh khi, hận thù mẹ. Người đọc cảm động trước sự phân minh, rành rẽ ấy. Hãy nghe Trần Văn Sửu nói với con: “Con không nên phiền trách má con. Má con có quấy là quấy với cha, chứ không quấy với con. Mà cha đã quên cái lỗi của má con rồi, sao con còn nhỞ làm chi?”.

Tuy nhiên, mâu thuẫn cơ bản ở cảnh thứ hai này chưa phải ở những điều đó. Thằng Tí muôn cha nó quay lại, muốn được sống cùng cha, muôn phụng dưỡng cha. Ây thố mà lòng hiếu nghĩa. Nhưng nếu là được như thế thì người cha sợ người làng bắt, tính mạng của cha sẽ nguy và hạnh phúc của nó chắc chắn sẽ bị đe doạ. Vì vậy mâu thuẫn ở đó là mâu thuẫn giữa tình thương cha và hạnh phúc của mình. Sâu xa hơn là mâu thuẫn giữa lòng vị tha và lòng vị kỉ. Thằng Tí sẵn sàng hi sinh hạnh phúc của mình đế’ chăm sóc và che chỞ cha nó. về phía Trần Văn Sửu cũng sa vào một mâu thuẫn. Nếu Sửu bỏ đi biệt thì coi như từ nay mất hẳn hai con, nhưng các con lại được hạnh phúc. Và người cha cũng quyết chọn con đường hi sinh cái nhu cầu nhỏ của mình để làm tròn cái bổn phận lớn của người cha. Sự lựa chọn đầy tính vị tha của hai cha con dẫn đến mâu thuẫn giữa hai cha con: cha thì nhất quyết ra đi, con thì nhất quyết khồng rời cha. Cha nghe theo đứa con không phải vì nghĩ dấn hạnh phúc của mình. Ngược lại nghe theo con chẳng qua là đành lòng nhượng bộ con, nghía là cũng vì con thôi!... Cuối cùng tình thương cao cả đã chiến thắng.

Kịch phản ánh cuộc đời thông qua các xung đột mâu thuẫn. Cha con nghĩa nặng không phai là tác phẩm kịch, nhưng là một tác phẩm văn xuôi giàu yếu tố kịch. Kịch tính ở đây là vẻ đẹp độc đáo của thiên truyện này. Câu chuyện dựng nên một cảnh ngộ thương tâm của con người trong cuộc đời. Người ta thấy đạo lí làm người là bất diệt. Dù con người vẫn cứ kiêu hãnh làm người. Với tư tướng ấy có thê xem Cha con nghĩa nặng là một khúc khải hoàn ca của đạo lí đã vang lên từ đầu thế kỉ. Và có lẽ nó còn vang vọng mãi.