LÀM VĂN
Thông tin doanh nghiệp
NEWS  |  TAGS

399B Trường Chinh, phường 14, quận Tân Bình, TP.HCM

  • Cảm nghĩ
  • Cảm nghĩ về bài thơ Hầu Trời của thi sĩ Tản Đà

Cảm nghĩ về bài thơ Hầu Trời của thi sĩ Tản Đà

ĐỀ: Cảm nghĩ về bài thơ Hầu Trời của thi sĩ Tản Đà.'Hầu Trời được viết theo thể thơ that ngôn trường thiên, bên cạnh những khổ thơ bôn câu, tác giả đan xen vào những đoạn thơ sáu câu, mười câu, mười hai câu...'

BÀI LÀM

Bài thơ Hầu Trời của Tản Đà có sự khác biệt về số câu ở hai văn bản. Bản do Nguyễn Nghiệp sưu tầm, tuyến chọn - Nhà xuất bản Văn học, 1982 có 120 câu. Bản do Nguyễn Khắc Xương sưu tập, chú thích - Nhà xuất bản Văn học, 1986 chỉ có 114 câu. Chúng tôi theo bản thứ nhất.

Hầu Trời là một bài thơ rất đặc sắc và độc đáo ở thi đề, độc đáo ở cảm hứng, độc đáo ở nội dung bài thơ.

Hầu Trời được viết theo thể thơ that ngôn trường thiên, bên cạnh những khổ thơ bôn câu, tác giả đan xen vào những đoạn thơ sáu câu, mười câu, mười hai câu... mang dáng dấp một bài hành nhỏ. Cấu trúc đa dạng ấy đã mở ra một không gian nghệ thuật để Tản Đà bộc lộ  ‘cái ngông‘ của mình, và cho nó  ‘tung hoành ‘ nơi Thiên môn để khuyết.

Phần đầu bài thơ kê chuyện lúc canh ba, thi sĩ ngâm thơ nơi hạ giới,  ‘tiếng ngâm vang cả sông Ngân Hà ‘, đã  ‘làm Trời mất ngủ... ‘. Trời bực mình bèn sai hai cô tiên bay xuống triệu chàng thi sĩ lên Thiên môn.

Bôn câu thơ mở đầu, Tản Đà dùng bốn chữ  ‘thật ‘ để khẳng định đó là một chuyện thật đã xảy ra  ‘sướng lạ lùng! ‘.

Trong bài Tìm hiểu Tản Đà, thi sĩ Xuân Diệu viết:

Bài Hầu Trời, tôi phục nhất đoạn mở:

Đêm qua chẳng biết có hay không Chẳng phải hoảng hốt không mơ mòng Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể Thật được lên tiên - sướng lạ lùng!.

Vào đột ngột câu dầu căng ra vẻ đặt vấn đề cho nó khách quan, nghi ngờ theo khoa học, để ba câu sau toàn là khẳng định, ăn hiếp người ta‘.

Phái viên của Trời là hai nàng tiên  ‘miệng cười mủm mỉm. Thi sĩ như được chắp cánh cùng bay lên Trời:  ‘Theo hai cô tiên lên đường mây - Vù vù không cánh mà như bay ‘. Nhìn thấy Thiên môn tráng lệ, chàng thi sĩ vô cùng ngạc nhiên tự hỏi:

Cửa son đỏ chói oai rực rỡ!

Thiên môn để khuyết như là đây?.

VỊ khách làm thơ nơi hạ giới được Trời và chư tiên trọng thị. Sau khi thi lễ  ‘sụp xuống lạy ‘, Trời ân cần sai tiên nữ  ‘dắt lôi dậy ‘, rồi mời thi sĩ  ‘ngồi chơi ‘ trên  ‘Ghẽ bành như tuyết, vân như mây ‘. Tiên đồng pha nước uống. Chư tiên kéo đến ngày một thêm đông. Đến để xem mặt người trần? Đến để đón tiếp với lòng hiếu khách? Hay đến đế' dự cuộc binh thơ, bình vãn?

Tiên dồng pha nước uổng vừa xong,

Bỗng thấy chư tiên đến thật dông,

Chung quanh bày ghế ngồi la liệt,

Tiên bà, tiên cô, cùng tiên ông.

Cuộc đọc văn và bình văn nơi Thiên môn để khuyết được Tản Đà kể lại thật sinh động và hấp dẫn. Thính giả gồm có Trời và đông đảo chư tiên. Sau khi nghe lời truyền bảo của Trời, văn sĩ cung kính thưa:  ‘Dạ,

bẩm lạy Trời, con xin đọc ‘, thì cuộc đọc văn, bình văn bắt đầu. Văn sĩ  ‘Đọc hết văn vần sang văn xuôi - Hết văn lí thuyết lại văn chơi ‘, càng đọc càng  ‘đắc ý‘, càng  ‘tốt hơi ‘, nhất là khi được nhấp giọng bằng  ‘chè Trời ‘. Thính giả và văn sĩ trở thành bạn tri âm trong cao hứng đọc  ‘ran cung mây ‘. Chẳng có rượu và hoa nhưng biết bao thú vị. Trời nghe văn nghe thơ  ‘củng lấy làm hay ‘. Chư tiên mỗi người có một cách biểu cảm riêng. Có nàng tiên thì  ‘nở dạn ‘ hoặc  ‘lè lưỡi ‘. Có người đẹp nơi Thiên môn thì xúc động quá mà  ‘chau đối mày ‘. Có nhiều nàng tiên bị thơ văn lôi cuốn  ‘lắng tai đứng ‘. Ai cũng nhiệt thành  ‘củng vô tay ‘ tán thưởng. Hỏi đã có văn sĩ nào xưa nay được hưởng hạnh phúc, được đọc văn, đọc thơ trước một thính giả nơi Thiên môn để khuyết như vậy?

Văn sĩ tự hào  ‘báo cáo ‘ với Trời về những tác phẩm của mình đã được in: ... Hai quyển  ‘Khối tình ‘ vãn thuyết lí Hai  ‘Khối tình con ‘ là văn chơi  ‘Thần tiền ‘,  ‘Giấc mộng ‘ văn tiểu thuyết  ‘Đài gương ‘,  ‘Lên sáu ‘ văn vị dời Quyển Đàn bà Tàu lối văn dịch Đến quyển  ‘Lên tám ‘ nay là mười....

Trời  ‘bật buồn cười ‘ khen ngợi:  ‘Vãn đã giàu thay lại lắm lối ‘ vì phong phú về thể cách, đa dạng về thể loại. Hạnh phúc biết bao khi văn sĩ được các tiên nữ gọi bằng  ‘anh ‘:

Chư tiên ao ước tranh nhau dặn:

Anh gánh lên đây bán chợ Trời!.

Cách kể chuyển mộc mạc tự nhiên, cách sử dụng ngôn từ, giọng điệu hóm hỉnh, tác giả đã làm nổi bật phong cách  ‘bình dân ‘ của ông Trời và các chư tiên, cùng với cái điệu bộ khúm núm và  ‘thật thà ‘ của văn sĩ. Qua cảnh đọc văn hầu Trời, Tản Đà đã phản ánh thực trạng xã Hội lúc bây giờ thật đáng buồn, nhất là tầng lớp văn sĩ như ông:

Bán văn buôn chữ kiếm tiền tiêu.

Quanh năm luống những ló văn ê,

Thân thế xem thua chú hát chèo!.

{Lo văn ể)

Đồng thời ông chỉ rõ, trong xã Hội thực dân nửa phong kiến ấy đã có mấy tri âm hiểu và biết trân trọng những tác phẩm văn chương của ông, vì thế ông phải lên hầu Trời, đọc văn cho Trời và chư tiên thưởng thức. Nguyễn Khắc Hiếu đã tự hào bộc lộ cái bản ngã, cái tài năng đích thực của mình trước con mặt đồng loại!

Trời với con mắt xanh, với sự thẩm văn tinh tế đã dành cho văn sì lần đầu mới gặp những lời ngợi khen vô giá:

Trời lại phê cho:  ‘Văn thật tuyệt! ‘

Văn trần được thế chắc có ít!

Nhài văn chuốt đẹp như sao băng!

Khí văn hùng mạnh như mây chuyển!

Êm như gió thoảng, tinh như sương!

Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết!...

Sao băng, mây, gió, sương, mưa, tuyết... được Trời đem ra so sánh để ngợi ca lời văn, khí văn của chàng văn sĩ. Cách kể, cách tả của tác giả thật tài hoa và có duyên. Cái  ‘tôi ‘ bản ngã được khẳng định.

Sau cuộc đọc văn, bình văn là cuộc hầu chuyện với Trời của vàn sĩ:

Dạ, bẩm lạy Trời con xin thưa Con tên Khắc Hiếu, họ là Nguyễn....

Trời  ‘ngợ ‘, rồi sai Thiên Tào lấy sổ xét:  ‘Bẩm quả có tên Nguyễn Khắc Hiếu - Đày xuống hạ giới vì tội ngông‘. Nhưng rồi Trời bao dung và ân cần an ủi, khích lệ. Trời không  ‘đày ‘ mà giao phó cho văn sĩ một trọng trách là đem việc  ‘thiên lương ‘ thuật lại cho  ‘đời hay‘, cho mọi người cùng biết. Văn sĩ. phải gánh trọng trách đem  ‘thiên lương ‘ giáo hóa người đời, để trần gian tươi đẹp hơn, yên vui hơn.

Bài thơ Hầu Trời không chỉ mang cảm hứng lãng mạn, mà còn hàm chứa yêu tố hiện thực, đó là đoạn thơ 16 câu văn sĩ thưa với Trời về thân phận mình bây lâu nay nơi hạ giới: rất nghèo khó, không có một thước đất cắm dùi, vốn liếng chỉ  ‘còn một bụng văn ‘; kế sinh nhai ngày một thêm chật vật:

... Giấy người, mực người, thuê người in Mướn cửa hàng người bán phường phô Vãn chương hạ giới rẻ như bèo Kiểm được đồng lãi thực là khó Làm mãi quanh năm chẳng đủ tiêu....

Khi nghe văn sĩ lo lắng thưa:  ‘Trời lại sai con việc quá nặng - Biết có làm nổi mà dám theo? ‘, thì Trời đã động viên và hứa:

Rằng:  ‘Con không nói, Trời đã biết,

Trời dẫu ngồi cao, Trời thấu hết.

Cho con cứ về mà làm ăn,

Lòng thông chỞ ngại chi sương tuyết,

Cố xong công việc của Trời sai,

Trời sẽ cho con về để khuyết... ‘.

Đoạn cuối bài thơ kể chuyện Trời sai Khiên Ngưu đóng xe đưa Trích tiên trở lại trần gian. Cuộc tiễn đưa của chư tiên vừa lưu luyến, vừa trang trọng:  ‘Hai hàng lụy biệt giọt sương rơi ‘. Khi trăng tà non Đoài, tiếng gà gáy xao xác, nhà thơ đã về tới sân nhà. Cảm thấy cô đơn và ngậm ngùi, Vừa tiếc rẻ, vừa mong ước:

Giữa sân còn đứng riêng ngậm ngùi.

Một năm ba trăm sáu mươi đêm,

Sao được dèm đêm lên hầu Trời!.

Bài Hầu Trời như một truyện cổ tích được viết bàng thơ. Nhân vật Trời và các chư tiên rất gián dị, bình dân, thân mật và dễ mến.

Bài thơ cho ta thấy Tản Đà có một trí tưởng tượng phong phú, một vốn từ ngữ giàu có, nhất là khi ông nói về Trời, về các chư tiên và cách sống của họ. Đoạn thơ nói vể cuộc đọc văn và bình văn, về ngôn ngữ dối thoại giữa văn sĩ với Trời và các chư tiên được kể lại rất sinh động và lí thú. Có lúc chúng ta cảm thấy cuộc bình văn hình như đang diên ra giữa thanh thiên bạch nhật nơi cõi đời mà mình từng được tham dự.

Hầu Trời là một bài thơ độc đáo và đặc sắc, tuy khá dài nhưng bố cục chật chẽ, giọng thơ liền mạch, nhất khí, cảnh và tình rất tự nhiên, diễn biến theo câu chuyện, lôi cuốh người đọc từ đầu đến cuối.

Bài thơ trường thiên Hầu Trời giúp ta cảm nhận thêm chất tài tử, tài hoa và  ‘cái ngông ‘ của Tản Đà thi sĩ.