399B Trường Chinh, phường 14, quận Tân Bình, TP.HCM
BÀI LÀM
Mình về thành thị xa xôi Nhà cao còn thấy núi đồi nữa chăng Phố đông còn nhớ bản làng Sáng đèn còn nhớmảnh trăng giữa rừng.
TốHữu
Trăng là đề tài muôn thuở của thi ca. Với ánh sáng huyền diệu, với chu kì tròn, khuyết lạ lùng, trăng đã gợi cho các thi nhân cổ kim nhiều ý tưởng sâu xa. Nguyễn Duy là nhà thơ lớn lên từ đồng quê, trăng như một ám ảnh. Rồi xê dịch với thời gian, vói không gian, trăng vẫn đeo đuổi nhà thơ và thế là thành thơ, thành triết lí.
Nguyễn Duy đã chọn thể thơ năm chữ với nhịp điệu linh hoạt để thể hiện sự vận động của không gian, của thòi giani
Hồi nhỏ sống với đồng với sông rồi với bể hồi chỉến tranh ởrừng vâng trăng thành tri kỉ.
Hồi ức được kể lại bằng hình ảnh. Hình ảnh chuyển rất nhanh. Cái hay là bằng hình ảnh của không gian (đồng - sông - bể - rừng) đã diễn tả sự vận động của thời gian - sự trưởng thành của nhà thơ (một nhà thơ lớn lên từ đồng quê). Khi hình ảnh vầng trăng xuất hiện thì nhịp thơ chậm lại, hợp với sự suy ngẫm:
Trần trụi với thiên nhiên hồn nhiên nhưcây cỏ ngỡ không baogiởquên cái vầng trăng tình nghĩa.
Nhà thơ nói "hồi chiến tranh ở rừng, vẩng trăng thành tri kỉ" là đã quá sâu sắc, vậy mà nhà thơ còn khắc đậm thêm tình cảm giữa nhà thơ với trăng. Người chiến sĩ sống giữa rừng “trần trụi với thiên nhiên", nói “trần trụi" là nhà thơ muốn nói đến sự gần gũi với thiên nhiên, với trâng, không có gì ngăn cách (như nhà lầu, cửa gương chẳng hạn). Tâm hồn người chiến sĩ thì hồn nhiên vô tư đến độ “như cây cổ'. Cho nên vầng trăng chẳng những là "tríkỉ", mà còn "tình nghĩẩ'-.
ngỡ không baogiờquên cái vầng trăng tình nghĩa.
Nhịp điệu tự sự ban đầu lại tái hiện với sự vận động của không gian, với sự xê dịch của tình cảm. Cái "ngỡ không baogiờ quên" đã quên:
Từhồi về thành phố quen ánh điện, cửa gương vầng trăng đi qua ngõ như người dưng qua đường.
Hình ảnh nhân hóa rất hay “ vâng trăng đi qua ngổ'. Trăng đâu có cao xa vời vợi, trăng vẫn gần gũi thân thương, vậy mà "nhưngười dưng qua đường'. Thế mới biết hoàn cảnh tác động đến con người ghê gớm thật! Tố Hữu đã dự báo mấy chục năm về trước rồi. Bây giờ Nguyễn Duy nhắc nhở thêm, càng thấm thìa.
Bài thơ được phát triển đến một tứ thơ có chút kịch tính:
Thình lình đèn điện tắt phòng buyn - đinh tối om vội bật tung cửa sổ đột ngột vầng trăng tròn.
Ngửa mặt lên nhìn mặt có cái gì rung rưng như là đồng, là bể nhưlà sông, là rùng.
Vầng trăng hiện ra "đột ngột' giữa lúc "đèn điện tắt', "phòng buyn- đinh tối om" gây xúc động cho con người đã "quen ánh điện, cửa gương'. Vầng trăng "trí kỉ', vầng trăng "tình nghĩẩ' vẫn "tròn". “ Vầng trăng tròn" xuất hiện giữa lúc thành phố "tối om" làm xáo trộn tâm hồn nhà thơ. Nhìn trăng, nhà thơ nhớ lại những kỉ niệm của tuổi thơ, nhớ lại những kỉ niệm của chiến tranh, của cuộc sống chiến sĩ:
Ngửa mặt lên nhìn mặt có cái gì rưng rưng như là dồng, là bể nhưlà sông, là rừng.
Trong câu thơ "ngửa mặt lên nhìn mặt', tác giả dùng hai từ "mặt' rất hay. Nếu từ "mật' thứ hai mà nói rõ là "mặt trăng' thì câu thơ sẽ tầm thường. "Ngửa mặt lên nhìn mặt' là nhìn mặt của tri kỉ, mặt của tình nghĩa mà bấy lâu mình dửng dưng. Sự thủy chung của vầng trăng đã làm động lòng "người vô tình". Thì ra "mình với ta tuy hai mà một'.
Cánh cửa sổ phòng buyn-đinh mở ra với vầng trăng là mở ra với thế giới bao la, tâm hồn của nhà thơ cũng mở ra đến chiều sâu thẳm:
Trăng cứ tròn vành vạnh kể chi người vô tình ánh trăng im phăng phắc đủ cho ta giật mình.
Hình ảnh “ vầng trăng tròn” còn được nhà thơ nhìn lại: “tròn vành vạnh”, thật là đẹp, một vẻ đẹp viên mãn (đẹp của ánh sáng, của tình nghĩa thủy chung, nhân hậu). Nhìn thấy “trăng tròn vành vạnh”, người vô tình càng thấy cái “khuyết' của mình. “Người vô tình” gặp lại người tri kỉ sáng trong, tình nghĩa, nhân hậu mà vô ngôn thì thật đáng sợ:
ánh trăng im phăng phắc đủ cho ta giật mình.
Cái “giật mình” chân thành có sức cảm hóa lòng người.
Bằng hình ảnh ánh trăng hiện ra đột ngột giữa khung cảnh thành phố, bài thơ như một lời tự nhắc nhở của tác giả về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước bình dị, hiền hâu... Bài thơ gây được xúc động bởi cách diễn tả như một lời tâm sự chân thành, lời tự nhắc nhở có giọng trầm tĩnh mà lắng sâu. Khổ cuối của bài thơ đưa tói chiều sâu lí tưởng triết lý: Vầng trăng cứ tròn đầy và lặng lẽ, “kể chi người vô tình”, là biểu tượng của sự bao dung độ lượng, của nghĩa tình thủy chung trọn vẹn trong sáng mà không hề đòi hỏi đền đáp. Đó cũng chính là phẩm chất cao cả của nhân dân, mà Nguyễn Duy cũng như nhiều nhà thơ cùng thời đã phát hiện và cảm nhận một cách sâu sắc trong thòi kì chiến tranh chống Mĩ.