399B Trường Chinh, phường 14, quận Tân Bình, TP.HCM
Bài làm
Vũ Thị Thiết quê ở Nam Xương xinh đẹp, nết na. Trương Sinh cùng làng, mến vì dung hạnh, xin mẹ đem trăm lạng vàng cưới vế. Biết tính chông da nghi, nàng giữ gìn khuôn phép không để xẩy ra thát hòa.
Cuộc sum vầy chưa dược bao lâu thì Trương Sinh phải tòng quân đi đánh giặc Chiêm. Trong buổi tiễn đưa, Vũ Nương rót chén rượu đầy đưa cho chồng và nói chi mong ngày chồng trở vê mang theo hai chữ bình yên.
Chống ra lính được một tuần thi Vũ Nương sinh được đứa con trai đặt tên là Đản. Nữa năm đã trôi qua, bà mẹ chổng già yếu, buồn lo rồi đau ốm. Nàng hết lòng săn sóc cơm cháo thuốc thang, ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn. Bệnh mỗi ngày một năng, mẹ chồng qua đời, nàng vô cùng thương xót, mọi việc ma chay tế lễ, nàng lo liệu như đối với cha mẹ dẻ mình.
Qua năm sau giặc tan, Trương Sinh được trờ lại nhà, con vừa học nói. Chàng bế con di thăm mổ mẹ, đứa trẻ không chịu và quấy khóc. Nghe Sinh dỗ dành, con ngây thơ nói: 'Thê ra ông cũng là chư tôiư? ông lại biết nói, chứ không như cha tôi trước kia chi nín thin thít’.Nghe Sinh gạn hỏi, đứa bé lại nói: 'Trước đây, thường có một người đâu ông, đêm nào cũng đến, mẹ Đần di cũng di, me Đần ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bé Đần ca'.
Vốn có tính ghen, nghe con nói, Trương Sinh đinh ninh là vợ hư. Chàng la um lẽn cho hả giận. Vợ khóc lóc phân trần, chàng càng mắng nhiếc đánh đuổi đi. Trước cảnh bình rơi trâm gãy, Vũ Nương tắm gội chay sạch, ra bên Hoàng Giang, ngừa mặt lên trời mà than, mong thần sông linh thiêng chứng giám. Nàng nguyền, nêu đoan trang, trinh bạch xin được làm ngọc MỊ Nương, làm cỏ Ngu Mĩ; nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chổng dôi con thì xin làm mồi cho tôm cá, làm cơm cho diêu quạ...
Vũ Nương nhảy xuống sổng tự tử. Chảng bao lâu sau, mốt đêm vắng vẻ, ngồi dưới đèn khuya, bỏng đứa con chí chiếc bóng in lèn vách mà nói rằng: ‘Cha Đần lại đến kia kìa !’. Lúc bấy giờ Trương Sinh mới thấu nỗi oan của vợ.
Lại nói chuyện Phan Lang người cùng làng, làm đầu mục ở bến đò Hoàng Giang. Một đêm chiêm bao thấy người con gái áo xanh đến kêu xin tha mạng. Sáng dậy, có người phường chài đem biếu một con rùa mai xanh; Phan chợt nghĩ đến chuyên mộng bèn đem thả con rùa ấy. Chẳng bao lâu sau, dưới thời Khai Đại nhà HỒ, giặc Minh sang cướp nước ta. Nhiều người sợ hãi chạy trốn, thuyền bè bị đắm, chết đuối đầy sông, trong đó có Phan Lang, xác dạt vào động Rùa ở hải đảo. Linh Phi là vợ vua Nam Hải chợt nhìn thấy, bèn nói; ‘Đấy là vị ân nhân cần sống ta thuở xưa’.Linh Phi lấy khăn dấu mà lau, thuốc thần mà đổ, một chốc sau Phan Lang hồi sinh.
Linh Phi rước Phan Lang vào cung nước, mở tiệc lớn ở gác Triều Dương để đãi ân nhân. Trong bữa tiệc có nhiều mĩ nhân, áo quần thướt tha, tóc búi xể, trong đó có một người chỉ điểm qua son phấn rất giống Vũ Nương. Tiệc xong, người đàn bà ấy đến gặp Phan Lang. Vũ Nương nói lại tình cảnh mình được các nàng tiên trong cung nước thương tình mà cứu sống. Nghe Phan nhắc lại cố hương, mồ mả tiền nhân,... Vũ Nương khóc...
Hôm sau, Linh Phi lấy một cái túi bằng lụa tía, đựng 10 hạt minh châu, sai sứ Xích Hỗn đưa Phan ra khỏi nước. Vũ Nương cũng gửi Phan chiếc hoà vàng đưa về cho Trương Sinh và dặn lập đàn giải oan, đốt cây đèn thần trên bến Hoàng Giang thì nàng sẽ trở về.
Nhận được chiếc hoà vàng, Trương Sinh thốt lên: ‘Đây quảlà vật dùng mà vợ tôi mang lúc ra đi..’.Sinh làm đàn tràng, đốt cây đèn thẫn ba ngày đêm trên bến Hoàng Giang. Vũ Nương đã hiên về, ngồi trên một chiếc kiệu hoà, theo sau có 50 chiếc xe cờ tán, võng lọng rực rỡ đầy sông. ‘Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng trở về nhân gian được nữa...’, tiếng Vũ Nương vọng vào, bóng nàng loang loáng mờ dần rồi biến mất.
—* Chú ý, các lời thoại có thể dẫn gián tiếp, dể bản tóm tất ngắn. lại. Nhưng làm thế, bản tóm tát sẽ giảm mất phần sắc màu ý vị.