LÀM VĂN
Thông tin doanh nghiệp
NEWS  |  TAGS

399B Trường Chinh, phường 14, quận Tân Bình, TP.HCM

  • Phân tích
  • Phân tích bài thơ Lai Tân của Hồ Chí Minh

Phân tích bài thơ Lai Tân của Hồ Chí Minh

Đề bài: Em hãy phân tích bài thơ Lai Tân của Hồ Chí Minh mà Bác đã dùng bút pháp nghệ thuật trào phúng để tố cáo hiện thực xã hội Trung Quốc thời bấy giờ?

Bài thơ Lai Tân của Hồ Chí Minh được tác giả viết trong hoàn cảnh đang bị cầm tù tại Trung Quốc, những người cai tù tham lam xấu xa đã được Bác khắc họa trong bài thơ.

Thời bấy giờ việc đánh bạc được xem là trọng tội nhưng những người cai tù vẫn ngày đêm chong đèn đánh bạc xem luật pháp không ra gì.

Dưới đây là những bài văn hay phân tích bài thơ Lai Tân của Hồ Chí Minh để các em tham khảo:

Bài 1. Bài văn của em Võ Văn Tùng đã phân tích bài thơ Lai Tân của Hồ Chí Minh:

Hồ Chí Minh (1890 – 1969) là một tác gia lớn của nền văn học Việt Nam, một nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca cách mạng Việt Nam. Tập thơ “Nhật ký trong tù” của Hồ Chí Minh vừa phản ánh bộ mặt xấu xa tàn bạo của xã hội nhà tù và xa hội Trung Quốc thời Tưởng Giới Thạch vừa khắc họa chân dung của một bậc “đại trí đại nhân đại dũng” là Hồ Chí Minh. Bài thơ “Lai Tân” là một bài thơ đã khái quát hóa được bộ mặt xã hội Trung Quốc thời Tưởng Giới Thạch. Bài thơ thông qua những cảnh ngược đời của ban trưởng cảnh trưởng huyện trưởng nhà thơ nhằm vạch trần bộ mặt tham lam và vô trách nhiệm của tầng lớp quan lại của xã hội Trung Quốc thời Tưởng Giới Thạch. Bộ mặt xã hội đó được nhà thơ phản ánh vừa cụ thể vừa khái quát, tác giả viết:

“Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc

Giải người cảnh trưởng kiếm ăn quanh

Chong đèn huyện trưởng làm công việc

Trời đất Lai Tân vẫn thái bình.”

Phân tích bài thơ Lai Tân của Hồ Chí Minh

Phân tích bài thơ Lai Tân của Hồ Chí Minh - Ảnh minh họa

 

Tập thơ “Nhật ký trong tù” (1942 – 1943) gồm có 134 bài trong đó bài “Lai Tân” là bài thứ 97. Bài thơ khái quát hóa bộ mặt thống trị thối nát xấu xa của xã hội Trung Quốc thời Tưởng Giới Thạch. Mở đầu bài thơ nhà thơ giới thiệu hai cành ngược đời của bọn quan lại trong và ngoài nhà tù.

“Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc

Giải người cảnh trưởng kiếm ăn quanh”

Trước hết tác giả đưa ra ánh sáng tên quan lại coi tù ở trong nhà tù đó là ban trưởng.

“Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc”

“Giam phòng ban trưởng thiên thiên đổ”

Câu thơ mở đầu bài thơ “Lai Tân” tác giả đã chộp được một sự kiên hết sức kinh ngạc là ban trưởng nhà lao đánh bạc. Đây là một chuyện lạ bởi vì xã hội Trung Quốc thời bấy giờ đánh bạc là trọng tội. Hồ Chí Minh đã từng viết về chuyện đánh bạc này trong “Nhật ký trong tù” rằng “đánh bạc ở ngoài quan bắt tội”. Hay là tác giả đã viết hẳn một bài thơ có tên “Một người tù cờ bạc vừa chết”. Người tù cờ bạc vừa chết vì phạm tội đánh bạc bị tra tấn hành hạ dã man “Thân anh da bọc lấy xương, khổ đau đói rét hết phương sống rồi, hôm qua còn ngủ bên tôi, hôm nay anh đã về nơi suối vàng”. Thế mà ban trưởng lại chuyên đánh bạc và dĩ nhiên đánh bạc trong tù chỉ có thể là đánh bạc với đám tù nhân. Đánh bạc là đã sai, đánh bạc với đám tù nhân lại càng sai nữa. Chưa dừng lại ở đó đã đánh với đám tù nhân thì phần thắng dĩ nhiên thuộc về ban trưởng. Như vậy đó là một hình thức bóc lột tù nhân của ban trưởng. Tên ban trưởng đã phạm hai trọng tội đó là đánh bạc thủ tiêu luật pháp và tham lam vơ vét của tù nhân.

Nhìn ra bên ngoài nhà tù thì tác giả lại tóm được một tên có chức trưởng nữa là cảnh trưởng tức cảnh sát trưởng thi hành pháp luật nhưng cũng làm trái với pháp luật.

“Giải người cảnh trưởng kiếm ăn quanh”

“Cảnh trưởng tham thôn giải phạm tiền”

Trong “Nhật ký trong tù” Hồ Chí Minh đã có nhiều bài thơ ghi lại bộ mặt xã hội Trung Quốc thời Tưởng Giới Thạch. Một cách nổi bật của bọn quan lại thời bấy giờ là nạn ăn hối lộ. Chúng đặt ra đủ cách đủ điều để bóc lột người dân bóc lột tù nhân. Hồ Chí Minh đã từng vạch trần rằng “muốn ngủ cho yên giấc, anh phải trả tiền nhiều”, “vào nhà lao phải trả tiền đèn, tiền Quảng Tây vừa đúng sáu nguyên” nếu không thì “mỗi bước anh đi mỗi bước phiền”. Tên cảnh trưởng này cũng không nằm ngoài bọn quan lại xấu xa đó, Hồ Chí Minh đã vạch trần sự tham lam của tên cảnh trưởng tìm mọi cách để “kiếm ăn quanh” là ăn tiền hối lộ của phạm nhân. Mặc dù tác giả không nói cụ thể việc ăn hối lộ như thế nào nhưng với cụm từ “cảnh trưởng tham thôn” là cảnh sát trưởng tham lam khi giải phạm nhân thì người đọc cũng liên tưởng tên cảnh sát trưởng này sẽ vòi vĩnh để ăn tiền hối lộ của phạm nhân như thế nào. Như vậy cảnh sát trưởng là giải người có tội thì chính hắn lại là người phạm tội, một cảnh ngược đời.

Với hai câu thơ tác giả đã lôi ra hai nhân vật quan lại trong và ngoài tù để chỉ mặt vạch tên, chúng lại là những kẻ thủ tiêu pháp luật chà đạp lên pháp luật. Lôi ra ánh sáng hai tên trưởng trong và ngoài nhà giam nhà thơ đã khái quát hóa cái đại loạn của nhà tù và xã hội Trung Quốc thời Tưởng Giới Thạch.

Sau khi lôi ra đám quan chức làm bậy ở ngoài xã hội, nhà thơ đi đến việc giới thiệu hình ảnh quan chức đứng đầu huyện Lai Tân. Huyện trưởng nhìn qua thì cũng rất nghiêm túc rất trách nhiệm.

“Chong đèn huyện trưởng làm công việc

Trời đất Lai Tân vẫn thái bình”

“Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự

Lai Tân y cực thái bình thiên”

Tên huyện trưởng được tác giả giới thiệu là đang làm công việc “biện công sự” và làm rất cần mẫn. Làm cả ngày cả đêm đến lúc phải chong đèn để làm công việc. Thế mà ban trưởng cảnh trưởng làm loạn chà đạp pháp luật rất xấu xa bỉ ổi mà huyện trưởng vẫn không hề biết. Trong con mắt huyện trưởng thì huyện Lai Tân của hắn vẫn “thái bình” như xưa và hắn tự hào về cái thái bình đó. Khi viết hai chữ này tác giả đã làn bật lên một tiếng cười châm biếm sâu cay. Nhà thơ Hoàng Trung Thông đã bình luận về hai chữ “thái bình” này rất đúng “Ở đâu đánh giặc thì cứ đánh còn đất trời Lai Tân này thì vẫn thái bình như muôn thuở. Một chữ thái bình mà xâu tác lại bao nhiêu việc làm trên vốn là chuyện muôn thuở của xã hội Trung Quốc còn giai cấp bóc lột thống trị. Chỉ một chữ ấy mà xé toan tất cả sự thái bình dối trá nhưng thực sự là đại loạn bên trong.”

Bài thơ “Lai Tân” chỉ đưa ra ba hình ảnh tiêu biểu cho bọn quan lại thời bấy giờ của Trung Quốc như là ban trưởng, cảnh trưởng, huyện trưởng nhưng nhà thơ đã khái quát hóa được cái bộ mặt thối nát của giai cấp thống trị thời Tưởng Giới Thạch là vừa tham lam vừa vô trách nhiệm trước xã hội. Về mặt nghệ thuật nhà thơ đã diễn giải nội dung theo sự nâng tầng nâng cấp từ chỗ quan nhỏ là ban trưởng đến quan lớn hơn là cảnh trưởng đến quan lớn hơn nữa là huyện trưởng và càng lên cao thì càng hư hỏng thối nát. Chữ “thái bình” ở cuối bài làm vỡ òa ra một tiếng cười châm biếm làm bung phá ra cái bộ mặt xấu xa của tầng lớp quan lại.

---------------------------------

Bài 2. Bài văn của em Lê Kim Lý  đã phân tích bài thơ Lai Tân của Hồ Chí Minh:

"Nhật kí trong tù" của Hồ Chí Minh được kết hợp từ hai yếu tô’"trữ tình" và "hiện thực”,"Lai Tân" là một trong những bài thơ thể hiện rõ những yếu tố đó. Nó là .một thành công của Bác trong việc kết hợp bút pháp tả thực và trào phúng vẽ nên bức tranh thời sự về chế độ xã hội Tưởng Giới Thạch.

Phân tích bài thơ Lai Tân của Hồ Chí Minh

Phân tích bài thơ Lai Tân của Hồ Chí Minh - Ảnh minh họa

Với tư cách là người thư ký trung thành của thời đại, Bác đã ghi lại một cách khách quan những cảnh:

"Giam phòng ban trưởng thiền thiên đổ
Cảnh trưởng tham thôn giải phạm tiền
Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự"

Khác với Tú Xương trong hoàn cảnh tự do nên có ‘thể thẳng tay độp vào mặt bọn thông trị những cái tát giáng trời:

"Ớ phố Hàng Song thật lắm -quan
Thành thì đen kịt, Đốc thì lang
Chồng chung vợ chạ kìa cô Bố
Dậu lạy quan xin nọ chú Hàn"

(Lắm quan)

Hồ Chí Minh chỉ có thể mỉa mai, châm .biếm sâu cay bọn thông trị bằng ngòi bút trong hoàn cảnh tù đày, gông xiềng. Từ cái mặt bên ngoài đến tận cùng những ngộc ngách bôn trong của bộ máy thông trị Trung Hoa quốc dân đảng đã chứa đầy những mâu thuẫn. Tác giả "Lai Tân" đưa ra ba gương mặt điển hình của bộ máy chính quyền Tưởng Giới Thạch đó là: "Ban trưởng","cảnh trưởng", "huyện trưởng cái chức "trưởng’ của họ khá oai vệ, đầy uy lực, nhưng việc làm của họ đầy khuất tất, bất chính. Khuôn khổ bài thơ rất ngắn gọn nhưng lại được đặt liên tiếp ba chừ "trường" trong ba cồu thơ đầu là sự "cớ tình" dùng phép lặp của Bác trong vỉệc dựng lên những chân dung tiêu biểu của giai cấp thống trị. Ba câu thơ – mồi câu là một bức tranh sống động mang tính thời sự nóng hổi, chân thật đến từng cõi tiết được vẽ bằng nét bút bình thản, lạnh lùng Bức thứ nhất bày ra trước mắt mọi người là hình ảnh một "ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc". Bức thứ hai là hình ảnh "cảnh trưởng tham lam ăn tiền phạm nhãn bị giải".

Cả ban trưởng và cảnh trưởng đều là những công cụ thi hành pháp luật rất đắc lực của cái xã hội đầy rẫy những bỉ lậu, xấu xa. Chúng khoác trên mình chiếc áo "công lý’ để làm những việc "bất công ly’ một cách thường xuyên hết ngày này đến ngày khác. Chức "trưởng" của chúng đã to, sự phạm pháp của chúng còn lớn hơn ngàn vạn lần. Tiếng cười trào lộng bật lên từ nghịch cảnh đó. Thoạt tiên, mới nhắc đến "ban trưởng", "cảnh trưởng" thiết tưởng đó là những người cầm cân nẩy mực chắc hẳn phải công minh, trong sạch nhưng ta thực sự bất ngờ khi biết chúng chẳng qua là những con mọt dân, gây rối, bắt bớ dân để mà tham nhũng, cờ bạc. Chúng mượn cái danh để tự đặt ra cho mình cái quyền thích làm gì thì làm. Đất Lai Tân có ban trưởng, cảnh trưởng tưởng chừng cuộc sông hình yên nhưng trớ trêu thay trật tự an ninh không được đảm bảo, những vi phạm pháp luật vẫn diễn ra đầy rẫy mà những kẻ đứng đầu bộ máy thống trị ở Lai Tân cũng chính là những kẻ cầm đầu những chuyện phạm pháp đó. Nực cười thay, nhà tù là nơi giam giữ những kẻ phạm tội vậy mà lại chính là nơi để tội phạm cổ thể thịnh hành rộng rãi nhất, tiêu biểu hơn cả, nhiều hơn cả vẫn là tội phạm cờ bạc mà chính giai cấp thống trị nhà lao cũng là những "đỗ phạm’. Cái nghịch cảnh "đánh bạc ở ngoài quan bắt tội, trong tù được đánh bạc công khai" là hiện thực thôi nát của nhà tù Tưởng Giới Thạch không thể phủ nhận được.

Cấp dưới sông và hành động bê tha, tàn ác như thế, vậy mà cấp trên – huyện trưởng – vẫn đêm đêm "chong đèn lo công việc". Mức độ mỉa mai, châm biếm của tác giả tăng dần. Kích thước của những bức tranh về sau to hơn, rộng hơn bức trước. Từ chân dung một ban trưởng trông coi một phạm vi nhà tù nhỏ hẹp tới một cảnh trưởng cai quản một địa phận lớn hơn đến một huyện trưởng cai trị một vùng rộng lớn và bao quát cả quyền của ban trưởng cảnh trưởng. Bức tranh thứ ba mở ra hình ảnh "Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự’ vẻ ngoài tưởng mẫu cách, sát sao với "công việc" nhưng thực ra lại là một kẻ quan liêu, vô trách nhiệm, không biết tay chân, cấp dưới làm những gì, phạm pháp những gì. Câu thơ phạm luật "nhị tứ lục phân minh" ở một chữ "công". Bao mỉa mai, đả kích sâu cay dồn nén vào một chữ "công" đó. Huyện trưởng "lo công việc" hay là mượn "việc công" để tạo một tấm bình phong che cho mình "io việc riềng", "chong đèn’ hút thuốc phiện? Tác giả đặt chữ "đăng" chính giữa câu thơ không nhằm mục đích tỏa sáng chận dung huyện trưởng mà nhằm đối lập, phản chiếu cái tối tăm của bộ máy thông trị Lai Tân (nói riêng), hệ thống chỉnh quyền Tưởng Giới Thạch (nói chung).

Giữa thực trạng ấy, thử hỏi bình yên ở đâu? Câu trả lời là: Bình yên vẫn ở chốn Lai Tân này!

"Trời đất Lai Tân vẫn thái bình"

Câu trả lời bất ngờ đến mức khiến người đọc ngã ngửa người. Thì ra là thế! Lời bình giá đã đi ngược lại với tất cả những mục ruỗng, thối nát của chính quyền Tưởng Giới Thạch được phơi bày ở trên. Từ lời bình giá đó đã vút lên một lời đã kích mạnh mẽ. Tác giả "Lai Tân" đã kết luận đầy châm biếm, mỉa mai sắc sảo và rất hùng hồn về cái xã hội ấy. Thủ pháp nói ngược của Bác đã làm bật ra tiếng cười trào phúng. ‘Trờiđất Lai Tân vẫn thái binh". Đúng vậy! Nhưng chỉ một chữ "vẫn" cũng đủ "điếng người’. Một cái bĩu môi dài, một cái cười khẩy, một giọng mĩa kéo dài bắc đầu từ chữ "vẫn" ấy. Nghệ thuật nâng cao – quật mạnh, nâng cao 1 quật càng được Bác sử dụng rất công hiệu ở câu thơ cuối bài này đã lay tỉnh người đọc nhìn sâu vào xã hộ ấy mà xem xét, đánh giá đúng thực chất của nó. Như con đà điểu thấy nguy hiểm là húc đầu vào sâu trong cát, giai cấp thống trị ở Lại Tân thấy trời đất thái bình là tưởng thây yên ổn chúng bằng lòng với cách thái bình đó mà không ngờ rằng dó chi là cảnh thái bình giả dối, trong đó chất chứa rất nhiều sóng gió, hiểm nguy. Điều ấy cũng thể hiện sự ngu dốt, vô trách nhiệm hết sức của bọn chúng.

Ba bức tranh – ba chân dung của ba kẻ đại diện cho giai cấp thông trị chế độ Tưởng Gịới Thạch ghép lại với nhau thành một bức tranh lớn – một chân dung lớn đầy đủ, trọn vẹn về xã hội Trung Hoa quốc dân đảng. Với "nghệ thuật vế đường tròn dồng tâm"t tác giả "Lai Tân’ đã vẽ được một bức tranh sinh động mỗi lúc một toàn diện hơn chế độ xã hội Tưởng Giới Thạch. Nhà "dột từ nóc dột xuống" chỉ qua một huyện Lai Tân mà cả bộ mặt thối nát, bỉ lậu của xã hội Tưởng được phơi bày. Tác giả đã phủ định triệt để tận gốc giai cấp thống trị ấy. Cái "loạn" của mảnh đất Lai Tân được tô đậm bằng màu xám, màu tối của những bê tha, xấu xa, vô trách nhiệm, rất quan liêu của văn võ bá quan. Và hơn thế, nó được "trang trí" bằng sự "thái bình” nhưng ai cũng hiểu trời đất Lai Tân "thái bình" như thế nào. Cách kết thúc bài thơ của Hồ Chí Minh giống lối thơ trào phúng truyền thống của các nhà thơ trào phúng Việt Nam như Tú Xương, Nguyễn Công Trứ, Hồ Xuân Hương… đồng thời đậm chất  (gây cười) của phương Tây. Hai chữ Lai Tân dường như không chỉ là một tên huyện đơn thuần mà tự bản thân nó đã mang một lớp nghĩa là mảnh đất mới, sáng sủa, bình yên. Và quả thật, huyện Lai Tân rất bình yên – bình yên "như xưa". Nhưng "như xưa" ở đây nghĩa là sự trì trệ, là chậm chạp không phát triển đã thành truyền thông; "như xưa" là không hề đổi thay, là duy trì những cái xâu xã, bĩ lậu của ngày trước. Hồ Chí Minh đã đả kích trực tiếp và khách quan chế độ Tưởng, do đó sức tế cáo, châm biếm của nó rất mạnh mẽ, quyết liệt. Bác đã giáng những đòn liên tiếp, chính xác vào xã hội ấy khiến nó phải "quần lèn" ở nhát đòn quyết định có tên là "thái bình”.

Không phải chỉ ở "Lai Tân" mà ở rất nhiều bàỉ thơ khác của "Nhật ki trong tu Bác cũng đã đả kích châm biếm sâu sắc xã hội Tưởng Giới Thạch như "Trảng binh gia quyến", "Đổ", "Đổ phạm’. Đó là "những ngón đòn trào phúng thâm thúy mà Bác đă đánh thẳng vào kẻ thù, vạch trần cái vô lý, tàn tệ" của chế độ ấy khiến "ta cười ra nước mắt". Tiếng cười trào lộng cất lên vừa trữ tình, vừa đẩm chất trí tuệ khiến ta thoải mái, hả hê.

Ta chợt nhớ tới Tú Xương ngày trước cũng từng có một tiếng cười trào lộng như thế: "Tri phủ Xuân Trường được mấy niên Nhờ trời hạt ẩy cùng bình yên"
(Đừa ông phủ)

Tiếng cười dân tộc đã thâm nhuần trong thơ hiện thực trào phúng của Hồ Chí Minh mà càng đọc ta càng thây nó sâu cay. "Lai Tân" là một bài thơ cũng năm trong số đó. Vừa có ý nghĩa hiện thực chân xác, vừa mang tính chiến đâu sắc mạnh tố cáo châm biếm cao độ, bài thơ đã giúp ta hiểu thêm về xã hội Tưởng Giới Thạch và hiểu hơn tâm hồn tài năng của Bác.