LÀM VĂN
Thông tin doanh nghiệp
NEWS  |  TAGS

399B Trường Chinh, phường 14, quận Tân Bình, TP.HCM

  • Bình giảng
  • Bình giảng 20 dòng đầu bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu

Bình giảng 20 dòng đầu bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu

Đề bài: Em hãy bình giảng 20 dòng đầu bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu để làm nổi bật tình yêu đất nước của một người lính trong cuộc kháng chiến đối với quê hương đất nước?

Bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu có thể nói là bài thơ hay nhất của nhà thơ trong văn học kháng chiến, được xem là thành tựu nghệ thuật bật nhất của nhà thơ.
20 câu thơ đầu của bài thơ Việt Bắc như những câu hát thể hiện ân tình của người lính đối với quê hương đất nước. Tình cảm này được diễn tả bằng một nghệ thuật thơ độc đáo đã thể hiện được ân tình đạo lý thủy chung đối với dân tộc.

Dưới đây là những bài văn bình giảng 20 dòng đầu bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu được tổng hợp để các em tham khảo:

Bài 1. Bài văn của em Nguyễn Thanh Ngân đã bình giảng 20 dòng đầu bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu:

Tập thơ “Việt Bắc”, là đỉnh cao của thơ Tố Hữu đồng thời cũng là thành tựu hàng đầu của thơ ca kháng chiến chống Pháp, trong đó bài thơ “Việt Bắc” đợc coi là kết tinh sở trờng nghệ thuật của ngòi bút Tố Hữu.

Đó là khúc hát ân tình của ngời kháng chiến đối với quê hương, đất nước với nhân dân cách mạng được thể hiện bằng một nghệ thuật vừa cổ điển vừa hiện đại mà cốt lõi là truyền thống ân nghĩa đạo lý thủy chung của dân tộc.

Bình giảng 20 dòng đầu bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu

Bình giảng 20 dòng đầu bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu

Được coi là người sinh ra để thơ hoá những vấn đề chính trị, thơ Tố Hữu luôn bám sát các sự kiện cách mạng. Men theo năm tháng những bài thơ của Tố Hữu, ta có thể tái hiện lại những chặng đường hào hùng của cách mạng Việt Nam. Thơ ông quả là “cuốn biên niên sử bằng thơ” như có nhà nghiên cứu đã đánh giá. “Việt Bắc” không phải là ngoại lệ.

Tháng 7/1954 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi hoà bình được lập lại, miền Bắc nước ta hoàn toàn giải phóng, một trang sử mới mở ra cho đất nước. Tháng 10/1954, cơ quan Trung ương của Đảng và Nhà nước chuyển từ căn cứ địa về thủ đô. Trong thời điểm lịch sử ấy, bài thơ “Việt Bắc” đã ra đời. “Việt Bắc” không còn là tình cảm riêng của Tố Hữu mà còn tiêu biểu cho tình cảm của người kháng chiến miền xuôi đối với chiến khu cách mạng, với đất nước, với nhân dân. Một sự kiện chính trị đã chuyển hoá thành thơ ca theo cách “Tâm tình hoá, là một đặc trng của lối thơ trữ tình chính trị Tố Hữu. 20 câu thơ đầu tiên của “Việt Bắc” thể hiện rất rõ đặc trưng nghệ thuật này.
Đoạn thơ mở đầu bằng những câu thơ ngọt ngào:

Mình về mình có nhớ ta
Mời năm năm ấy thiết tha mặn nồng.

Câu thơ mở ra cảnh giã biệt, một hoàn cảnh đặc biệt để bộc lộ cảm xúc trữ tình dạt dào. Cảnh giã biệt vẫn quen thuộc trong thơ ca dân gian và cổ điển truyền thống đã được Tố Hữu khéo vận dụng để diễn tả tâm trạng mang tính thời đại. Cuộc chia tay lớn của cán bộ Đảng, Chính phủ với Việt Bắc được thu vào cuộc chia tay của một đôi trai gái: người ở lại rừng núi chiến khu là cô gái Việt Bắc, người về xuôi là anh cán bộ cách mạng. Chuyện chung đã hoá thành chuyện riêng, chuyện cách mạng của dân nước trở thành chuyện tình yêu của lứa đôi, cuộc chia tay đầy bịn rịn lưu luyến giữa những người đã từng gắn bó sâu nặng dài lâu:

“Mười lăm năm” “thiết tha mặn nồng” được Tố Hữu thể hiện bằng một thể thơ giàu tính dân tộc. Thể lục bát, cách kết cấu đối đáp, sử dụng đại từ nhân xưng “Mình”, “Ta” quen thuộc trong thơ ca dân gian, có khả năng “biểu hiện một cách thuận tiện, phù hợp với điệu hồn chung của cộng đồng người Việt” “Rung lên cái sợi tơ lòng chung của những tấm lòng Việt”. Tất cả những yếu tố đó đã diễn tả thật xúc động tình cảm quyến luyến thiết tha trong một cuộc chia tay đặc biệt: chưa xa đã nhớ, để chia mà không xa, cách mà
không biệt.

Mình về mình có nhớ ta” đã là chuyện chung thuỷ, riêng tư. Nhưng đến:

“Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn”

thì không còn là chuyện của tình yêu lứa đôi mà đã là chuyện ân nghĩa thủy chung của đạo lý dân tộc. Câu thơ lục bát điệp hai lần từ “mình” nghe như lối tâm tình thương mến mà day dứt. Băn khoăn lớn nhất của ta và mình trong cuộc chia tay là ân tình thủy chung. Cái độc đáo ở chỗ: một câu hỏi về thời gian, một câu hỏi về không gian. Chỉ một khổ thơ đã gói gọn một thời cách mạng, một trời cách mạng. Tác giả đã chọn tình yêu một đôi trai gái làm một góc nhìn để bao quát toàn cảnh Việt Bắc với “Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng” Từ thuở cách mạng còn trứng nước đến khi trưởng thành vững vàng đó là điểm nhìn nghệ thuật rất Tố Hữu- người thi sĩ luôn khơi nguồn cảm hứng từ những sự kiện lớn của cách mạng.

Tiếp theo câu hỏi của ngời ở là tiếng lòng của người đi:

Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay

Người đi đã nghe câu hỏi, lòng tràn đầy bâng khuâng “bồn chồn” một tình cảm thương nhớ “thiết tha”. Tâm trạng lúc chia tay được diễn tả thật đắt qua sự luyến láy của ngôn từ và cả ở nhạc điệu của câu thơ: Hai câu đầu là nhịp 2/2 hối hoàn của lục bát đến đây đã vặn mình chuyển điệu 3/3:

“Áo chàm đưa/ buổi phân ly
Cầm tay nhau/ biết nói gì / hôm nay”

Cái xao xuyến bồi hồi của lòng người đã cồn cào nổi sóng trên câu thơ thể hiện cách thần tình chút ngập ngừng chứa chan tình thương mến, tạo ra một khoảng lặng đầy biểu cảm để chuỗi câu hỏi tiếp theo vang lên dồn dập, tha thiết hơn.

Mười hai câu lục bát còn lại là lời của người ở, cấu tạo bằng sáu câu hỏi như khơi sâu vào kỷ niệm. Mỗi câu hỏi đều gợi lại những gì tiêu biểu nhất của Việt Bắc qua những hình ảnh chọn lọc gợi cảm: Mưa nguồn, suối lũ, mây mù, Những hình ảnh chọn lọc vừa chân thực vừa thơ mộng; “Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son” Những câu thơ có khả năng diễn biến những khái niệm trừu tợng thành hình ảnh đầy cảm giác sống động cụ thể “mối thù nặng vai”. Nghệ thuật nhân hoá cũng tạo nên sự sống động cho hình ảnh thơ:

“Mình về rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già”

Tình cảm của ngời ở đối với ngời đi xem ra đợc thể hiện sâu kín hơn cả trong câu thơ này, chỉ 14 chữ mà chứa đựng biết bao quyến luyến nhớ thương: Người đi rồi cả một miền rừng trở nên hoang vắng, trám không người nhặt, măng không ai hái, cả núi rừng cũng mong nhớ đến thẫn thờ. Như một thông lệ trong cuộc chia tay giữa những người thân thiết, người ta thường đẩy thời gian về quá khứ để chưa xa đã nhớ, chưa biệt đã thương. Để trên nền xúc cảm này, dòng hồi tởng những kỉ niệm thân thương ùa về mãnh liệt.

“Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa”

Nhìn thoáng qua, tổ chức các câu thơ đều lặp lại ở phép láy đầu 6 câu: Mình đi, mình về. “Đi”, “Về” vốn ngợc chiều trái hướng, song ở đây lại đồng nhất một phương .
Phải chăng niềm tin giản dị mà rất thực của cả người đi và người ở đã thổi vào câu chữ, làm nên chút choáng ngợp bối rối của ngôn từ, thể hiện mạch ngầm văn bản trong chiều sâu thơ ca: Ra đi để hẹn về. Việt Bắc đã trở thành quê hương thứ hai của ngời cán bộ kháng chiến.

Những kỷ niệm được gợi nhớ đều là những kỷ niệm của cuộc sống chung, tình cán bộ với nhân dân chia ngọt sẻ bùi, chung gian lao, chung mối thù Nếu không khéo rất dễ sa vào cái gọi là “liệt kê kỉ niệm” câu thơ sẽ trôi tuột đi, không thể lưu đọng lại trong lòng người đọc. Cái làm nên chất thơ của bài “Việt Bắc” cũng như của đoạn thơ này chính là nhạc điệu. Chính nhạc điệu đã làm cho các kỷ niệm trở nên ngân nga, trầm bổng réo rắt, thấm sâu vào tâm tư. Những yếu tố làm nên chất nhạc kỳ diệu ấy không chỉ ở những câu lục bát rất chuẩn về thanh luật mà còn ở nghệ thuật tiểu đối được sử dụng với tần số cao trong các câu thơ. Nó không chỉ có khả năng biểu đạt rất xúc động nỗi lòng sâu kín bồi hồi của người đi kẻ ở, mà còn tạo ra sự tương xứng về cấu trúc, vẻ đẹp nhịp nhàng của ngôn từ.

Mưa nguồn suối lũ / những mây cùng mù
Miếng cơm / mối thù
Trám / măng
Hắt / son
Nhớ / mình
Tân / đa

Những hình ảnh thơ đã thực sự cất lên chất thơ nhờ nhạc điệu đầy quyến luyến, trầm bổng, ngân nga qua những câu thơ sóng đôi lối đối xứng tiểu đối, nó mang vẻ đẹp cổ điển uyên bác. Đặc biệt câu hỏi cuối đoạn thơ có thể tách riêng ra bởi sự thâm thúy, hàm súc:

“Mình đi mình có nhớ mình
Tân Trào Hồng Thái mái đình cây đa”

Đại từ “mình”, “ta” vốn được sử dụng trong đối đáp thơ ca dân gian nay được Tố Hữu sử dụng đầy biến ảo: Khi mình là Ta, khi “ta” là “mình”, cái ngầm ý hai ta là một đã rõ. Nhng ở đây một câu lục mà tới ba lần lặp lại chữ mình: “Mình đi, mình có” là chỉ ngời về, “nhớ mình” là chỉ người ở. Câu hỏi đầy ý nhị mà sâu kín: Mình quên “ta” cũng là quên chính “mình” đó. Cũng như ở phần sau, Tố Hữu lại nhấn theo lối bồi thấn trong câu thơ trả lời khẳng định sắt son.

“Mình đi mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu”

Nhà thơ đã khai thác rất đắt chữ “Mình” trong tiếng Việt. “Mình” vừa là bản thân vừa là ta, “Mình” cũng là ngời thân thiết có thể xem như chính mình vậy. Đại từ nhân xưng được sử dụng vừa thống nhất vừa biến hoá khiến “Việt Bắc” cất lên như tiếng lòng đồng vọng bản hoà âm tâm hồn của kẻ ở người đi.

Sự đổi chỗ trong tổ chức câu thơ: “Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào” được viết thành: “Tân trào Hồng Thái mái đình cây đa” chứng tỏ tên riêng và danh từ chung đều đã đồng nhất hoàn toàn về ý nghĩa -Việt Bắc quê hương cách mạng. Nỗi nhớ về chiến khu Việt Bắc “Tân Trào, Hồng Thái”, đã chuyển hoá thành nỗi nhớ quê hương “Mái đình cây đa” những hình ảnh đã đi vào tâm thức người Việt từ ngàn đời. “Trong thơ Tố Hữu, cái riêng, cái chung như không còn ranh giới, cái cũ cái mới lồng vào nhau, (Nguyễn Văn Hạnh) mà đây là một trờng hợp điển hình.

“Việt Bắc” là bài ca tâm tình, ngọt ngào đằm thắm rất tiêu biểu cho hồn thơ, cho phong cách thơ của Tố Hữu. Vẫn là tiếng nói của tình cảm tình yêu nhưng là tình yêu đối với quê hương đất nước, đối với cách mạng đối với nhân dân.

Trong câu chuyện với một nhà nghiên cứu văn học người Pháp Tố Hữu tâm sự rằng: “mình phải lòng đất nước và nhân dân của mình. Và đã nói về đất nước về nhân dân như nói về người mình yêu”. Cho nên tình yêu biến thành tình nghĩa “Việt Bắc” đã trở thành tiếng hát ân tình chung của những người kháng chiến, của cả dân tộc trong một thời điểm lịch sử đáng ghi nhớ.

------------------------------------

Bài 2. Bài văn của em Phan Thị Kim Xuyến đã bình giảng 20 dòng đầu bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu:

"Việt Bắc" được coi là đỉnh cao của thơ ca kháng chiến chống Pháp, nhưng trước hết là một trong những đỉnh cao của thơ Tố Hữu. Bởi nó không chỉ thể hiện những tình cảm lớn lao của nhà thơ đối với kháng chiến, cách mạng mà nó còn kết tinh trong đó những đặc sắc trong thế giới nghệ thuật của Tố Hữu. Đó là những đặc trưng về chất trữ tình chính trị của thơ THữu, là đặc trưng về tính dân tộc, về màu sắc dân gian trong ngôn ngữ thơ của Tố Hữu. Vì thế bài thơ vừa đem đến cho người đọc những nhận thức sâu sắc về niềm tự hào đối với cuộc khchiến thần thánh của chúng ta, lại vừa đem đến cho người đọc những rung cảm thẩm mỹ hết sức mạnh mẽ. Có thể thấy những đặc sắc này ngay từ những dòng thơ mở đầu của "Việt Bắc".

"Mình về mình có nhớ ta
.........................................
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa"

Người ta thường nói đến một đặc trưng nổi bật của thơ Tố Hữu, đó là chất trữ tình chính trị vì mỗi chặng đường thơ của Tố Hữu dường như đều gắn liền với mỗi chặng đường cmạng của dtộc chúng ta, từ thuở "Từ ấy" cho đến "Một tiếng đờn" sau này. Nói như thế cũng là nói về "Việt Bắc", bài thơ đã tạo nên một trong những đỉnh cao vời vợi của thơ Tố Hữu. Bởi vì bài thơ đã ra đời từ một sự kiện chính trị hết sức lớn lao trong đời sống của dân tộc, sự kiện các cơ quan của trung ương Đảng, của chphủ, các cơ quan khchiến, các cán bộ chiến sĩ kháng chiến sau khi hoà bình lập lại đã giã từ Việt Bắc để về xuôi, về tiếp quản Thủ đô. Tố Hữu muốn thông qua "Việt Bắc" để dựng lại bức tranh tổng quát của cuộc khchiến 9 năm rất đáng tự hào của dân tộc ta trên chiến khu Việt Bắc, lại vừa ghi lấy cái thời điểm chia tay giữa đồng bào Việt Bắc với các cơ quan kháng chiến. Nhưng Tố Hữu đã không làm bản tổng kết về cuộc kháng chiến, không làm bản thông báo về sự kiện chính trị kia mà đã trữ tình hoá tất cả những nội dung thấm đẫm màu sắc chính trị ấy. Người ta đã có lý khi nói thơ Tố Hữu là thứ thơ "đốt cháy trái tim để trở thành trí tuệ", nghĩ là từ cảm xúc mãnh liệt của trái tim mà thức nhận những chân lý sống, chân lý cách mạng.

Bình giảng 20 dòng đầu bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu

Bình giảng 20 dòng đầu bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu


Với ý tưởng trữ tình hoá sự kiện chtrị cũng như đsống chtrị của đất nước, viết "Việt Bắc", THữu đã sáng tạo nên một cấu tứ rất độc đáo, cấu tứ từ khúc hát đối đáp trong cuộc chia tay giữa người ở và người về xuôi để từ những khúc hát đối đáp ấy khơi gợi những kniệm về những ngày kháng chiến gian khổ mà vẻ vang, rồi từ những kniệm kia mà dựng lại quá trình trưởng thành của cuộc kháng chiến, dựng lên hình ảnh của nhân dân, của những người chiến sĩ, hình ảnh của Bác, của Đảng. Vì thế ngay từ những câu thơ mở đầu ta đã thấy cuộc trò chuyện tâm tình, những câu hát đối đáp giữa "mình" và "ta" vô cùng tha thiết, mặn nồng. THữu đã sử dụng những cặp từ đối đáp rất quen thuộc trong ca dao, dân ca để cuộc chia tay trở nên đằm thắm như của đôi lứa yêu nhau. Những chữ "mình", "ta" từ câu thơ mở đầu cho tới những dòng thơ cuối cùng luôn luôn khơi gợi những tình cảm mặn nồng, không bao giờ phai nhạt giữa V Bắc và cách mạng, kháng chiến.

Trong cuộc tiễn đưa đầy lưu luyến, bịn rịn của VBắc đối với người về xuôi, khúc hát chia tay đã được bắt đầu cất lên từ chính lòng người ở lại. Tố Hữu như muốn nói lòng người VBắc thuỷ chung với cách mạng biết nhường nào. Ngay từ câu thơ mở đầu, trong 6 tiếng đã có tới 2 tiếng "mình" thân thương.. Sự trở đi trở lại tiếng gọi đối với "mình" như để nói lòng người VBắc không nguôi nhớ người về xuôi, nhưng lại cũng như xoáy sâu vào ký ức của người về xuôi những kniệm chan chứa nghĩa tình. Cũng ngay từ câu thơ mở đầu, những chữ "mình", "ta" đã như quấn quýt lấy nhau như sự gắn bó không muốn chia xa giữa người ở và người về. Âm điệu của câu thơ chủ yếu được tạo bởi thanh bằng: "Mình về mình có nhớ ta", với một chữ "ta" ở cuối làm cho tcảm nhớ thương vừa lắng vào lòng người trong cuộc chia tay lại vừa lan xa mênh mang.

Kết cấu của 2 câu thơ mở đầu là kết cấu của một câu hỏi tu từ, câu hỏi khơi gợi những kniệm thiết tha mặn nồng, câu hỏi bao trùm cả không gian của 15 năm ấy. Câu hỏi thường có tác dụng khơi sâu vào lý trí của người nghe nhưng ở đây câu hỏi lại khơi gợi những kniệm đầy xúc động của 15 năm cách mạng đã gắn bó với Việt Bắc để làm nên một VNam dchủ c hoà, bởi THữu đã sử dụng một thứ ngôn ngữ chan chứa cảm xúc. Những chữ "mười lăm năm ấy" gợi ta nhớ tới "cái thuở ban đầu" của tình yêu đã từng được nói tới trong câu thơ của Lưu Trọng Lư:

"Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy - Nghìn năm hồ dễ đã ai quên"

Người về làm sao có thể quên được 15 năm ấy của mối tình đầu giữa cách mạng và VBắc. Cùng với sự khơi gợi những tình cảm trong sáng, đẹp đẽ, những tình cảm "nghìn năm hồ dễ đã ai quên", câu thơ còn được tiếp tục bởi những chữ "thiết tha mặn nồng". Một câu thơ viết về 15 năm của cmạng, của khchiến mà nồng nàn, mà tha thiết và trữ tình biết bao.

Vẫn là một câu hỏi mà người ở lại hướng tới người về xuôi, vẫn là một cách xưng hô hết sức tình tứ "mình" với "ta", nhưng ở 2 dòng thơ tiếp theo lại là câu hỏi bao trùm cả không gian, không gian của cuộc chia tay, không gian của những kniệm qua suốt 15 năm ấy, không gian của cả đất nước, bao trùm cả miền ngược lẫn miền xuôi, không gian của cây với núi, của sông với nguồn. Một câu hỏi làm bâng khuâng cả núi rừng sông núi, cả đất trời trong khung cảnh chia tay.

Dường như ở đâu trong cái thời điểm ấy cũng có sự hoà hợp giữa niềm vui và nỗi nhớ, vì sự chia tay giữa "mình" với "ta" là một sự kiện lớn lao trong đời sống của đất nước.

Cái đặc sắc của câu thơ không chỉ thể hiện qua kết cấu của câu hỏi, qua từ ngữ xưng hô tình tứ mà còn qua những hình ảnh như được viết ra từ thể hứng thể phú, thể tỉ trong ca dao. Đọc câu thơ "Mình về mình có nhớ ta- Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng - Mình về mình có nhớ không - Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn"

Ta ngỡ như câu ca dao:

"Qua đình ngả nón trông đình - Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu - Qua cầu ngả nón trông cầu- Cầu bao nhiêu nhịp dạ sầu bấy nhiêu"

Thơ Tố Hữu viết về những vấn đề chtrị mà vẫn thấm cái hồn của ca dao, dân ca. 4 câu thơ như bài ca dao vậy, chất trữ tình gắn liền với những băn khoăn, trăn trở của người ở lại, của VBắc vô cùng thuỷ chung với cmạng. THữu đã chọn được cách nói để khơi nguồn cho cxúc xuyên suốt "VBắc" hết sức đặc sắc.
Mạch thơ trong những câu mở đầu này cứ thế mà tuôn chảy dào dạt.

Nằm trong mạch hát đối đáp, bài thơ đã dành đúng 4 dòng thơ diễn tả tâm trạng người về xuôi, tạo nên sự cân đối với 4 dòng thơ mở đầu, tạo nên sự tương xứng của lòng người về xuôi với VBắc, tương xứng với sự thuỷ chung của VBắc. ở 4 dòng thơ này như có sự nhớ thương đáp lại nhớ thương, tha thiết đáp lại với thiết tha, cái bịn rịn không nỡ rời chân đáp lại cái mặn nồng của người ở lại. Nằm trong mạch cảm xúc như của tiếng hát giữa đôi lứa yêu nhau, THữu buông một câu thơ rất tình tứ:
"Tiếng ai tha thiết bên cồn"

Chỉ một chữ "ai" thôi đủ làm say đắm lòng người. Chữ "ai" đâu phải để hỏi vì muốn biết ai; chữ "ai" đâu cũng còn là đại từ phiếm chỉ để chỉ chung, chỉ một đối tượng không xác định bởi ở đây cả "ta" lẫn "mình" đang lên tiếng hát cho cuộc chia tay đầy lưu luyến này. Chữ "ai" chỉ là một cách nói để làm tăng thêm tcảm yêu thương, để câu nói trở nên tình tứ mà thôi. Người về xuôi trong nỗi niềm xúc động như mở rộng tâm hồn, mở rộng nỗi lòng của mình để đón nhận cái thiết tha của những tình cảm thuỷ chung kia, để rồi bày tỏ tcảm của mình. Đó là trạng thái "bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi". Những chữ "bâng khuâng", "bồn chồn" diễn tả rất chính xác trạng thái tcảm của người về xuôi.

Bâng khuâng chính là nỗi niềm thương nhớ đối vơí cảnh, đối với người, đối với cuộc sống đã trở thành kỷ niệm của những ngày kháng chiến, những kniệm còn vương vấn, còn dâng đầy trong tâm trí người về xuôi. Bước chân về xuôi mà lòng dường như vẫn còn vấn vương với VBắc. Còn "bồn chồn" là một từ đã tâm trạng hóa bước đi của người về xuôi, những bước đi không nỡ rời mảnh đất yêu thương qua 15 năm ấy. Mỗi bước đi mỗi bước nhớ nhung, mỗi bước đi mỗi bước không yên bởi nỗi niềm thương nhớ ấy.

Với câu thơ thứ 3 ở khổ thơ này, THữu đã bất ngờ làm hiện ra ý nghĩa lsử của cuộc chia tay. Bởi với những dòng thơ mở đâù trước đó, tiếng hát đối đáp như chỉ của "mình" với "ta", của đôi lứa yêu nhau, đột nhiên cuộc chia tay ấy trở thành cuộc chia tay lớn của cả VBắc đvới người khchiến từ một hình ảnh hoán dụ:
"áo chàm đưa buổi phân ly"

Cả Việt Bắc như "ngẩn ngơ" trong cuộc chia tay lsử ấy. Hình ảnh "áo chàm" dùng để chỉ hình ảnh của VBắc trong thủ pháp hoán dụ. Cái "ngẩn ngơ" của VBắc hiện ra ở những chữ "đưa buổi phân ly". Trong khi đó, câu thơ
:

"Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay"

Không chỉ thể hiện cái lặng đi trong giây phút xđộng của người về xuôi mà còn diễn tả cái ngập ngừng, bịn rịn, lưu luyến trong bước chân của người về xuôi qua sự đột biến của nhịp điệu câu thơ, bởi câu thơ lục bát vốn có kết cấu của những nhịp chẵn đều đặn, mang cái dìu dặt của khúc hát chia tay, đã chuyển thành nhịp lẻ: 3/3/2

"Cầm tay nhau / biết nói gì / hôm nay"
Nhịp điệu ấy gợi ta nhớ tới cảnh chia tay trong câu thơ
"Bước đi một bước, giây giây lại dừng"


Sự thay đổi nhịp điệu của câu thơ còn làm cho đoạn thơ có sự đổi mới đối với cảm xúc của người đọc. Câu thơ làm cho người đọc không rơi vào cái tiết tấu qúa đều đặn qua suốt 8 dòng thơ mà trở nên mòn, chán.

Sự tiếp nối của 12 dòng thơ nằm trong mạch cấu trúc của hoài niệm như một sự xuất hiện tất yếu, bởi sau những băn khoăn của VBắc đvới tcảm của người về xuôi là tiếng hát đầy nghĩa tình của kẻ đi, là sự khẳng định niềm thuỷ chung của cách mạng đối với VBắc. Tiếng hát ấy đã làm cảm động người ở lại khiến bao nhiêu kniệm, bao nhiêu hồi ức đầy nghĩa tình đã trào dâng mạnh mẽ trong tâm trí người tiễn đưa. 12 dòng thơ tiếp nối nhau tạo thành một dòng chảy của những kniệm cuồn cuộn, nồng nàn, tha thiết. Mỗi cặp 6-8 lại khơi gợi một kỷ niệm về những tháng ngày sâu nặng nghĩa tình của VBắc. Và những câu 6 tiếp nối nhau đều là những câu hỏi như một sự khơi gợi nỗi nhớ đối với người về xuôi. Mỗi câu 6 lại hướng tới "mình", những chữ "mình" tiếp nối nhau như một điệp khúc của tcảm. Và đặc biệt ở những câu 6, chữ "mình" tha thiết bao giờ cũng gắn với chữ "đi" đầy nhớ thương (ở đây về cũng là đi, đi cũng là về). Chữ "mình", chữ "đi" bao giờ cũng kèm với chữ "nhớ", mới thấy người ở lại lưu luyến kẻ về xuôi biết bao
"Mình đi có nhớ những ngày - Mình đi mình có nhớ mình"

Sử dụng chữ "mình", một đại từ xưng hô tiềm ẩn bao tcảm thân thương, THữu cũng cho thấy cái biến hoá linh hoạt trong cách nói năng, trong sự cảm nhận sắc thái ý nghĩa của từ này. ở đây "mình" là mình nhưng cũng lại là "ta". Mình và ta tuy 2 mà 1. Cho nên người ở lại mới nói với người về xuôi:
"Mình đi mình có nhớ mình"

Đây là đoạn thơ khơi gợi những kniệm của một thời cmạng để dựng nên cộng hoà, vì thế mỗi câu 8 trong cặp lục bát là mỗi câu nhắc nhở một kniệm không bao giờ quên, như kỷ niệm về những ngày gian khổ xây dựng phong trào trong hình ảnh "mưa buồn suối lũ những mây cùng mù", về những ngày "miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai", về những ngày náo nức trong phong trào kháng Nhật của thuở còn Việt Minh và những ngày tưng bừng chuẩn bị cho Cách mạng tháng Tám nơi "***i đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào". Song cái đặc sắc trong câu 8 này là ở chỗ tiết tấu rất giàu nhạc điệu của nghệ thuật đối. THữu đã sử dụng nghệ thuật đối một cách triệt để qua tất cả các câu 8 ở đây, nghệ thuật đối làm cho nhạc điệu của đoạn thơ trở nên réo rắt và tạo nên những ấn tượng mạnh mẽ, sâu sắc đối với từng kniệm.

Đó là lối đối giữa các vế câu với nhau như: "Miếng cơm chấm muối /mối thù nặng vai" để làm nổi bật sự đồng tâm nhất trí giữa nhân dân và cmạng. Khó khăn lại càng làm chồng chất mối thù đối với thực dân phát xít. Đó cũng là sự tương phản giữa csống gian khổ và lòng người qua những hình ảnh đối chọi nhau

"Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son"

Đó là những vế đối làm nổi bật nỗi buồn của Việt Bắc đvới cuộc chia tay

"Trám bùi để rụng, măng mai để già"

Nghệ thuật đối vốn rất quen thuộc trong ca dao, tục ngữ, nhưng với THữu, nghệ thuật đối đã có những stạo. ở đây không chỉ có sự tương phản mà còn có sự bổ sung của các vế đối. ở đây có lối đối giữa các vế trong một câu nhưng lại cũng có những tiểu đối, lối đối ngay trong một vế câu như "mưa nguồn / suối lũ" rồi "những mây / cùng mù"; lại có những biến thể lồng chéo tạo nên các vế đối như trong trường hợp "Tân Trào, Hồng Thái, ***i đình, cây đa" vốn nằm trong những cụm từ đã tương đối cố định, đó là mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào". Đoạn thơ vì thế rất giàu nhạc điệu, một thứ nhạc điệu được tạo nên từ tiết tấu của câu thơ.

Thơ Tố Hữu với "Việt Bắc", đặc trưng trữ tình không chỉ hiện ra từ những câu thơ lục bát vốn mang âm điệu tha thiết mà còn thể hiện ở cấu tứ, ở ngôn ngữ luôn luôn tràn đầy cảm xúc. Vì thế khúc hát mở đầu cho "Việt Bắc", khúc hát về cuộc chia tay lớn gắn liền với đời sống chính trị của dtộc, khúc hoài niệm về những tháng ngày cách mạng mà vẫn có sức lay động tình cảm của người đọc, làm rung động trái tim mỗi con người Việt Nam ở thời điểm tràn đầy sung sướng và hạnh phúc kia. Với đoạn thơ mở đầu này, ta cũng đã thấy "Việt Bắc" của Tố Hữu rất giàu chất dân tộc, chất dân gian, giàu nhạc tính.